Thứ Sáu, 4 tháng 4, 2014

Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ tại Công ty Cao su Sao Vàng Hà Nội


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ tại Công ty Cao su Sao Vàng Hà Nội": http://123doc.vn/document/544050-giai-phap-nang-cao-hieu-qua-su-dung-tscd-tai-cong-ty-cao-su-sao-vang-ha-noi.htm


Để có thể hiểu rõ hơn việc đưa ra 2 tiêu chuẩn trên ta có thể đưa ra những
phân tích như sau:
TSCĐ là tư liệu lao động nhưng không phải tất cả tư liệu lao động là TSCĐ.
Những tư liệu lao động nào là TSCĐ ít nhất phải là sản phẩm lao động xã hội và
có giá trị. Giá trị của TSCĐ biểu hiện lượng hao phí lao động cần thiết nhất
định để sản xuất sản phẩm và lượng lao động vật hoá thể hiện trong sản phẩm
đó. Do vậy, đất đai, sông ngòi được coi là tư liệu lao động nhưng không được
tính vào TSCĐ vì nó không phải là sản phẩm của lao động xã hội và không có
giá trị. Tuy nhiên, không phải tất cả những tư liệu lao động vốn là sản phẩm của
lao động xã hội và có giá trị đều được coi là TSCĐ cả.
Người ta thường quy định một giới hạn nhất định về giá trị và về thời hạn
sử dụng. Giới hạn về thời hạn sử dụng, ở tất cả các nước đều quy định là một
năm. Nguyên nhân là do thời hạn này phù hợp với thời hạn kế hoạch hoá, quyết
toán thông thường và không có gì trở ngại đối với vấn đề quản lý nói chung.
Giới hạn về giá trị thì ở các nước khác nhau đều không giống nhau vì giới hạn
về giá trị nhất định phải phù hợp với quá trình hình thành giá trị, có hiệu lực
chung đối với tất cả hoặc đối với nhiều ngành kinh tế, đồng thời phải bảo đảm
việc hạch toán chi phí sản xuất, tính toán kế hoạch được thuận tiện.
Hiện nay, theo quy định của Nhà nước thì những tư liệu được coi là TSCĐ
nếu chúng thoả mãn hai tiêu chí, đó là thời gian sử dụng lớn hơn một năm, giá
trị đơn vị đạt tiêu chuẩn từ 5000.000 đồng.
Như vậy, có những tư liệu lao động không đủ hai tiêu chuẩn quy định trên
thì không được coi là TSCĐ và được xếp vào “công cụ lao động nhỏ” và được
đầu tư bằng vốn lưu động của doanh nghiệp, có nghĩa là chúng là TSLĐ.
Tuy nhiên, trong thực tế việc dựa vào hai tiêu chuẩn trên để nhận biết TSCĐ
là không dễ dàng do các nguyên nhân sau:
Một là, do trong một số trường hợp việc phân biệt đối tượng lao động với
các tư liệu lao động là TSCĐ của doanh nghiệp không chỉ đơn thuần dựa vào
5
đặc tính hiện vật mà còn dựa vào tính chất công dụng của chúng trong quá trình
sản xuất kinh doanh. Điều này có nghĩa là có thể cùng một loại tài sản nhưng ở
trường hợp này nó được coi là TSCĐ nhưng ở trong trường hợp khác nó lại
được coi là đối tượng lao động. Chẳng hạn như máy móc thiết bị, nhà xưởng
dùng trong sản xuất thì sẽ được coi là TSCĐ song nếu là các sản phẩm máy móc
hoàn thành đang được bảo quản trong kho thành phẩm chờ tiêu thụ hoặc là công
trình xây dựng cơ bản chưa bàn giao thì chỉ được coi là tư liệu lao động. Như
vậy, vẫn những tài sản đó nhưng dựa vào tính chất, công dụng mà khi thì là
TSCĐ khi chỉ là đối tượng lao động. Tương tự như vậy trong sản xuất nông
nghiệp, những gia súc được sử dụng làm sức kéo, cho sản phẩm thì được coi là
TSCĐ nhưng vẫn chính gia súc đó khi được nuôi để lấy thịt thì chỉ là các đối
tượng lao động mà thôi.
Hai là, đối với một số các tư liệu lao động nếu đem xét riêng lẻ thì sẽ không
thoả mãn tiêu chuẩn là TSCĐ. Tuy nhiên, nếu chúng được tập hợp sử dụng đồng
bộ như một hệ thống thì cả hệ thống đó sẽ đạt những tiêu chuẩn của một TSCĐ.
Ví dụ như trang thiết bị trong một phòng thí nghiệm, một văn phòng, một phòng
nghỉ khách sạn, một vườn cây lâu năm
Ba là, hiện nay do sự tiến bộ của khoa học công nghệ và ứng dụng của nó
vào hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời do những đặc thù trong hoạt động
đầu tư của một số ngành nên một số khoản chi phí doanh nghiệp đã chi ra có
liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nếu đồng thời
đều thoả mãn cả hai tiêu chuẩn cơ bản trên và không hình thành TSCĐHH thì
được coi là các TSCĐVH của doanh nghiệp. Ví dụ như các chi phí mua bằng
sáng chế, phát minh, bản quyền, các chi phí thành lập doanh nghiệp
Đặc điểm chung của các TSCĐ trong doanh nghiệp là sự tham gia vào
những chu kỳ sản xuất sản phẩm với vai trò là các công cụ lao động. Trong quá
trình tham gia sản xuất, hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của
TSCĐ không thay đổi. Song TSCĐ bị hao mòn dần (hao mòn hữu hình và hao
6
mòn vô hình) và chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản phẩm sản xuất
chuyển hoá thành vốn lao động. Bộ phận giá trị chuyển dịch này cấu thành một
yếu tố chi
phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và được bù đắp mỗi khi sản phẩm
được tiêu thụ. Hay lúc này nguồn vốn cố định bị giảm một lượng đúng bằng giá
trị hao mòn của TSCĐ đồng thời với việc hình thành nguồn vốn đầu tư XDCB
được tích luỹ bằng giá trị hao mòn TSCĐ. Căn cứ vào nội dung đã trình bày trên
có thể rút ra khái niệm về TSCĐ trong doanh nghiệp như sau :
TSCĐ trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu có giá trị
lớn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, còn giá trị của nó thì được chuyển dịch
từng phần vào giá trị sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, các TSCĐ của doanh
nghiệp cũng được coi như bất cứ một loại hàng hoá thông thường khác. Vì vậy
nó cũng có những đặc tính của một loại hàng hoá có nghĩa là không chỉ có giá trị
mà còn có giá trị sử dụng. Thông qua quan hệ mua bán, trao đổi trên thị trường,
các TSCĐ có thể được dịch chuyển quyền sở hữu và quyền sử dụng từ chủ thể
này sang chủ thể khác.
1.2.2. Phân loại TSCĐ.
Để quản lý và sử dụng có hiệu quả TSCĐ người ta phân loại TSCĐ. Việc
phân loại TSCĐ được đúng đắn, kịp thời, đầy đủ sẽ tạo tiền đề cho việc
hạch toán kế toán, thống kê và kế hoạch hoá biện pháp kỹ thuật sản xuất trong
các doanh nghiệp. Muốn phân loại TSCĐ đúng cần căn cứ vào các đặc điểm về
công dụng, hình thái biểu hiện Tuỳ theo yêu cầu của công tác quản lý mà có
thể phân loại TSCĐ theo các cách chủ yếu sau đây:
1.2.2.1. Phân loại theo hình thái biểu hiện.
Theo cách phân loại này, TSCĐ trong doanh nghiệp chia làm hai loại: TSCĐ
mang hình thái vật chất (TSCĐHH) và TSCĐ không có hình thái vật chất
(TSCĐVH).
7
TSCĐHH : Là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất cụ thể
( từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận
taì sản liên kết với nhau để thực hiện một hoặc một số chức năng nhất định), có
giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh
doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như nhà xưởng, máy
móc thiết bị, phương tiện vận tải
TSCĐVH: Là những tài sản không mang tính vật chất, thể hiện một lượng
giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chi phí sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp như: chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí lợi thế
kinh doanh, chi phí mua bản quyền, phát minh, sáng chế
1.2.2.2. Phân loại TSCĐ theo công dụng kinh tế.
Theo cách phân loại này, TSCĐ của doanh nghiệp được chia làm 6 loại:
- Nhà cửa, vật kiến trúc: là những TSCĐ của doanh nghiệp được hình thành
sau quá trình thi công, xây dựng như nhà xưởng, trụ sở làm việc, nhà kho, tháp
nước, hàng rào, sân bay, đường xá, cầu cảng.
- Máy móc thiết bị: là toàn bộ các loại máy móc thiết bị dùng trong hoạt động
sản xuất kinh doanh như máy móc chuyên dùng, thiết bị công tác, dây chuyền
công nghệ, những máy móc đơn lẻ
- Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: là các phương tiện vận tải bao gồm
các phương tiện vận tải đường bộ, đường sắt, đường thuỷ và các thiết bị truyền
dẫn như các hệ thống thông tin, hệ thống điện, hệ thống đường ống dẫn nước,
đường điện
- Thiết bị dụng cụ quản lý: là những thiết bị dùng trong công tác quản lý hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như máy vi tính, máy fax, dụng cụ
đo lường, các thiết bị điện tử
- Vườn cây lâu năm- súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm: là các vườn cây lâu
năm như vườn chè, vườn cây cao su, vườn cà phê, vườn cây ăn quả, thảm cỏ,
8
thảm cây xanh, súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm như đàn voi, đàn bò, đàn
ngựa
- Các loại TSCĐ khác: là toàn bộ các loại TSCĐ chưa liệt kê vào 5 loại trên
như tác phẩm nghệ thuật, tranh ảnh
Cách phân loại này cho thấy công dụng cụ thể của từng loại TSCĐ trong
doanh nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý sử dụng TSCĐ và tính
toán KHTSCĐ chính xác. Nó giúp cho viêc tính được tỷ lệ các loại TSCĐ khác
nhau với toàn bộ TSCĐ, kiểm tra mức độ đảm bảo của TSCĐ đối với nhiệm vụ
sản xuất kinh doanh, biết được trình độ cơ giới hoá về kỹ thuật sản phẩm của xí
nghiệp.
Mỗi cách phân loại trên cho phép doanh nghiệp đánh giá, xem xét TSCĐ
theo các tiêu thức khác nhau. Tuỳ theo yêu cầu quản lý, các doanh nghiệp tự
phân loại sao cho phù hợp.
1.2.3. Kết cấu TSCĐ.
Kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp là tỷ lệ giữa nguyên giá của một loại tài sản
cố định nào đó so với nguyên giá TSCĐ của doanh nghiệp tại một thời điểm
nhất định.
Kết cấu TSCĐ giữa các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất khác nhau
thậm chí trong cùng ngành sản xuất cũng khác nhau. Sự khác biệt hay biến động
về kết cấu TSCĐ trong các doanh nghiệp trong các thời kỳ phụ thuộc vào các
nhân tố sau:
- Tính chất sản xuất và quy trình công nghệ như trong ngành khai thác, vật
kiến trúc chiếm tỷ lệ lớn nhất trong giá trị TSCĐ, trong ngành chế biến tỷ lệ lớn
nhất là thiết bị và máy móc sản xuất, trong ngành động lực tỷ lệ lớn nhất là thiết
bị động lực và thiết bị truyền dẫn.
- Trình độ kỹ thuật sản xuất: Ở những xí nghiệp nào mà trình độ sản xuất cơ
hoá và tự động hoá tương đối cao thì tỷ lệ của máy móc sản xuất và thiết bị sản
9
xuất chiếm tỷ trọng lớn hơn, nhà cửa và dụng cụ quản lý chiếm tỷ trọng nhỏ
hơn.
- Phương thức tổ chức sản xuất: Nếu áp dụng cách sản xuất dây chuyền thì tỷ
lệ thiết bị truyền dẫn và phương tiện vận tải trong xí nghiệp giảm xuống, sử
dụng tốt hơn các địa điểm sản xuất và bố trí hợp lý hơn các thiết bị máy móc sẽ
làm thay đổi quan hệ tỷ lệ giữa các thiết bị và nhà kho do đó nâng cao tỷ lệ máy
móc thiết bị trong tổng số TSCĐ của doanh nghiệp.
- Quy mô của doanh nghiệp lớn hay nhỏ: Trong các doanh nghiệp lớn, tỷ lệ
máy móc thiết bị thường cao hơn so với các doanh nghiệp nhỏ, tỷ lệ dụng cụ,
nhà cửa thường thấp hơn các doanh nghiệp nhỏ, do đó các doanh nghiệp lớn
thường có thể tiết kiệm số vốn đầu tư vào nhà cửa và dụng cụ.
Ngoài ra kết cấu TSCĐ còn phụ thuộc vào khả năng thu hút vốn đầu tư, khả
năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Trong công tác quản lý sử dụng
TSCĐ của doanh nghiệp, phân tích kết cấu TSCĐ giúp ta thấy rõ được cơ cấu
đầu tư, tình hình sử dụng TSCĐ, trình độ trang bị kỹ thuật cho sản xuất, có ý
quan trọng trong kiểm tra hiệu quả của việc đầu tư xây dựng cơ bản và xu thế
chung của các ngành. Nó giúp doanh nghiệp chủ động điều chỉnh kết cấu TSCĐ
sao cho có lợi nhất cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ của doanh
nghiệp.
1.2.4. Hao mòn- khấu hao TSCĐ.
1.2.4.1. Hao mòn.
TSCĐ trong quá trình tham gia vào sản xuất, vẫn giữ nguyên hình thái vật
chất ban đầu nhưng trong thực tế do chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân
khác nhau khách quan và chủ quan làm cho TSCĐ của doanh nghiệp bị giảm
dần về tính năng, tác dụng, công năng, công suất và do đó giảm dần giá trị của
TSCĐ, đó chính là hao mòn TSCĐ.
10
TSCĐ của doanh nghiệp bị hao mòn dưới hai hình thức: hao mòn hữu hình
(HMHH) và hao mòn vô hình (HMVH) .
- Hao mòn hữu hình.
HMHH của TSCĐ là sự hao mòn về vật chất, về thời gian sử dụng và giá trị
của TSCĐ trong quá trình sử dụng. Về mặt vật chất đó là sự hao mòn có thể
nhận thấy được từ sự thay đổi trạng thái ban đầu ở các bộ phận, chi tiết TSCĐ
dưới tác dụng của ma sát, tải trọng, nhiệt độ, hoá chất, Về giá trị sử dụng, đó là
sự giảm sút về chất lượng, tính năng kỹ thuật ban đầu trong quá trình sản xuất và
cuối cùng không còn sử dụng dược nữa. Trong một mức độ nhất định muốn khôi
phục lại giá trị sử dụng của nó phải tiến hành sửa chữa, thay thế các chi tiết. Về
mặt giá trị, đó là sự giảm dần giá trị của TSCĐ cùng với quá trình chuyển dịch
dần từng phần giá trị hao mòn vào giá trị sản phẩm sản xuất. Đối với các TSCĐ
vô hình, HMHH chỉ thể hiện ở mặt giá trị.
Tốc độ và mức độ HMHH của TSCĐ trong nhiều giai đoạn khác nhau của
việc sử dụng chúng cũng tuỳ thuộc vào những điều kiện khác nhau như chất
lượng của việc thiết kế và xây dựng TSCĐ, loại và chất lượng vật liệu dùng để
chế tạo ra TSCĐ đó, chế độ bảo quản, sử dụng TSCĐ, trình độ tay nghề của
công nhân sử dụng TSCĐ đó, tốc độ và tính chất kịp thời của việc sửa chữa
TSCĐ, điều kiện bảo quản, diều kiện tự nhiên như nhiệt độ, độ ẩm không khí
Việc xác định rõ nguyên nhân của những HMHH TSCĐ sẽ giúp cho các
doanh nghiệp đưa ra những biện pháp cần thiết, hữu hiệu để hạn chế nó.
- Hao mòn vô hình.
Đồng thời với sự HMHH của TSCĐ lại có sự hao mòn vô hình (HMVH).
HMVH của TSCĐ là hao mòn thuần tuý về mặt giá trị của TSCĐ. HMVH của
TSCĐ có thể do nhiều nguyên nhân.
11
Thứ nhất là, sự mất giá trị của TSCĐ do việc tái sản xuất TSCĐ cùng loại
mới rẻ hơn. Hình thức HMVH này là kết quả của việc tiết kiệm hao phí lao động
xã hội hình thành nên khi xây dựng TSCĐ.
Thứ hai là, HMVH là sự mất giá trị của TSCĐ do năng suất thấp hơn và hiệu
quả kinh tế lại ít hơn khi sử dụng so với TSCĐ mới sáng tạo hiện đại hơn về mặt
kỹ thuật. Ngoài ra, TSCĐ có thể bị mất giá trị hoàn toàn do chấm dứt chu kỳ
sống của sản phẩm, tất yếu dẫn đến những TSCĐ sử dụng để chế tạo cũng bị lạc
hậu, mất tác dụng. Hoặc trong các trường hợp máy móc thiết bị, quy trình công
nghệ còn nằm trên dự án thiết kế, các bản dự thảo phát minh song đã trở nên
lạc hậu vào thời điểm đó. điều này cho thấy HMVH không chỉ xảy ra đối với
TSCĐ hữu hình mà còn với cả các TSCĐ vô hình.
Như vậy không những HMHH của TSCĐ làm cho mức khấu hao và tỷ lệ
khấu hao có sự thay đổi mà ngay cả HMVH của TSCĐ cũng làm cho mức khấu
hao và tỷ lệ khấu hao có sự thay đổi nữa.
Nguyên nhân cơ bản của HMVH là sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ
thuật. Do đó biện pháp có hiệu quả nhất để khắc phục HMVH là doanh nghiệp
phải coi trọng đổi mới khoa học kỹ thuật công nghệ, sản xuất, ứng dụng kịp thời
các thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật. Điều này có ý nghĩa quyết định trong
việc tạo ra các lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường.
1.2.4.2. Khấu hao TSCĐ.
KHTSCĐ là việc chuyển dịch dần giá trị hao mòn của TSCĐ vào chi phí sản
xuất trong kỳ theo phương pháp tính toán thích hợp. Nói cách khác, KHTSCĐ là
việc tính toán và phân bổ một cách có hệ thống nguyên giá của TSCĐ vào chi
phí kinh doanh theo thời gian sử dụng của TSCĐ và đảm bảo phù hợp với lợi
ích thu được từ tài sản đó trong quá trình sử dụng.
Khi tiến hành KHTSCĐ là nhằm tích luỹ vốn để thực hiện quá trình tái sản
xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Vì vậy, việc lập nên quỹ
KHTSCĐ là rất có ý nghĩa. Đó là nguồn tài chính quan trọng để giúp doanh
12
nghiệp thường xuyên thực hiện việc đổi mới từng bộ phận, nâng cấp, cải tiến và
đổi mới toàn bộ TSCĐ. Theo quy định hiện nay của nhà nước về việc quản lý
vốn cố định của các doanh nghiệp thì khi chưa có nhu cầu đầu tư, mua sắm, thay
thế TSCĐ các doanh nghiệp cũng có thể sử dụng linh hoạt quỹ khấu hao để đáp
ứng các nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo nguyên tắc hoàn
trả.
Việc tính toán chính xác mức khấu hao có ý nghĩa rất quan trọng đối với
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó phải phù hợp với mức độ
hao mòn của TSCĐ và đảm bảo thu hồi đầy đủ giá trị vốn đầu tư ban đầu. Thực
hiện tốt điều này sẽ đảm bảo tính chính xác của giá thành sản phẩm, hạn chế ảnh
hưởng của HMVH và góp phần vào việc bảo toàn và tăng vốn cố định. Đồng
thời việc tính toán đầy đủ, chính xác mức khấu hao vào chi phí sản xuất thì việc
hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mới bảo đảm chính xác
để đo lường chính xác thu nhập của doanh nghiệp. Hiện nay, các doanh nghiệp
muốn tính đúng, tính đủ chi phí khấu hao và giá thành sản phẩm thì biện pháp
quan trọng nhất là phải không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng các TSCĐ.
1.2.4.3. Những quy định về tính khấu hao TSCĐ.
a/ Phạm vi TSCĐ phải tính khấu hao.
Theo quy định hiện hành của Bộ trưởng Bộ tài chính thì mọi TSCĐ của
doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động kinh doanh đều phải tính khấu hao,
mức tính KHTSCĐ được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Những TSCĐ không tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì không phải
tính khấu hao, bao gồm:
- TSCĐ không cần dùng, chưa cần dùng đã có quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cho phép doanh nghiệp được đưa vào cất giữ, bảo quản,
điều động cho doanh nghiệp khác.
- TSCĐ thuộc dự trữ Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý, giữ hộ.
13
- TSCĐ phục vụ cho các hoạt động phúc lợi trong doanh nghiệp như nhà trẻ,
câu lạc bộ , những TSCĐ phục vụ nhu cầu chung toàn xã hội, không phục vụ
cho các hoạt động kinh doanh của riêng doanh nghiệp như đê đập, cầu cống
mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý.
- TSCĐ khác không tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp không được tính khấu hao đối với những TSCĐ đã khấu hao
hết nhưng vẫn được sử dụng vào mục đích kinh doanh.
Đối với những TSCĐ chưa khấu hao hết đã hỏng, doanh nghiệp phải xác
định nguyên nhân, quy trách nhiệm đền bù, đòi bồi thường thiệt hại và xử lý
tổn thất theo các quy định hiện hành.
Đối với những TSCĐ đang chờ quyết định thanh lý, tính từ thời điểm TSCĐ
ngừng tham gia vào hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp thôi tính khấu hao.
b/ Quy định về thời gian tính, thôi tính khấu hao.
Việc tính hoặc thôi tính KHTSCĐ được thực hiện theo nguyên tắc tròn tháng.
Những TSCĐ tăng trong tháng thì tính khấu hao từ tháng sau, còn đối với những
TSCĐ giảm trong tháng thì tháng sau thôi tính khấu hao.
c/ Căn cứ để tính khấu hao TSCĐ.
Theo quy định hiện hành mức tính KHTSCĐ trong doanh nghiệp phải căn
cứ vào thời gian sử dụng và nguyên giá của TSCĐ đó. Vì vậy, việc xác định thời
gian sử dụng và nguyên giá TSCĐ phải tuân thủ các tiêu chuẩn do Nhà nước
quy định.
- Thời gian sử dụng TSCĐ là thời gian doanh nghiệp dự kiến sử dụng TSCĐ
vào hoạt động kinh doanh trong điều kiện bình thường phù hợp với các thông số
kinh tế – kỹ thuật của TSCĐ và các yếu tố khác có liên quan đến sự hoạt động
của TSCĐ. Khi xác định thời gian sử dụng của TSCĐ, doanh nghiệp phải căn cứ
vào các tiêu chuẩn sau:
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét