LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "Tài liệu Đề tài:"Tìm ba vụ việc có thật liên quan đến giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức" doc": http://123doc.vn/document/1050598-tai-lieu-de-tai-tim-ba-vu-viec-co-that-lien-quan-den-giao-dich-dan-su-vo-hieu-do-khong-tuan-thu-quy-dinh-ve-hinh-thuc-doc.htm
Có hai cách phân loại giao dịch dân sự vô hiệu:
Cách thứ nhất: Căn cứ theo tính chất:
+ Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối:
Là những giao dịch dân sự vi phạm những quy tắc pháp lý có mục
đích bảo vệ quyền và lợi ích chung của cộng đồng.
Giao dịch dân sự do giả tạo, giao dịch dân sự có nội dung và mục
đích trái với pháp luật và đạo đức xã hội, giao dịch dân sự không tuân theo hình
thức luật định bị coi là giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối - thời gian yêu cầu
Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không hạn chế.
+ Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối:
Là những giao dịch dân sự vi phạm một trong những quy tắc pháp
lý có mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của một chủ thể xác định (cá
nhân, pháp nhân,…)
Giao dịch dân sự được giao kết do nhầm lẫn, đe doạ, lừa dối, do
người chưa thành niên, người bị mất hay hạn chế năng lực hành vi dân sự thiết
lập là giao dịch dân sự vô hiệu tương đối - thời hạn yêu cầu xem xét hiệu lực
của giao dịch dân sự đó là một năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập.
Cách thứ hai: căn cứ theo mức độ vô hiệu:
+ Giao dịch dân sự vô hiệu toàn bộ, trong các trường hợp:
Do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập
Do người xác lập giao dịch dân sự không nhận thức được hành vi
của mình.
+ Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần:
Chỉ có một hoặc một số phần của giao dịch đó vô hiệu nhưng không
ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại của giao dịch dân sự.
5
2.4. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
Điều 137 BLDS quy định hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu:
- Giao dịch dân sự đó không làm phát sinh bất cứ quyền dân sự nào cho
các chủ thể tham gia xác lập giao dịch dân sự.
- Vô hiệu ngay từ thời điểm xác lập giao dịch dân sự đó.
- Khôi phục lại tình trạng tài sản ban đầu:
+ Nếu giao dịch dân sự đó chưa được thực hiện thì các bên không được
thực hiện.
+ Nếu giao dịch dân sự đó đã được thực hiện một phần thì các bên dừng
ngay việc thực hiện, không được tiếp tục thực hiện phần còn lại và phải có
nghĩa vụ hoàn trả cho nhau những lợi ích vật chất đã nhận được của nhau.
+ Nếu giao dịch dân sự đó đã thực hiện xong thì các bên hoàn trả cho
nhau những lợi ích vật chất mà các bên đã nhận được hoặc trả cho nhau số tiền
tương đương với giá trị lợi ích vật chất mà mình đã nhận được nếu như lợi ích
vật chất đó không còn trên thực tế.
- Phần bồi thường thiệt hại: Bên có lỗi gây ra sự vô hiệu của giao dịch
dân sự phải bồi thường thiệt hại.
II. NHỮNG VỤ VIỆC CÓ THẬT LIÊN QUAN ĐẾN GIAO DỊCH DÂN
SỰ VÔ HIỆU DO KHÔNG TUÂN THỦ QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC
1. Vụ việc thứ nhất: Tranh chấp đòi nhà cho ở nhờ và tranh chấp hợp đồng
đặt mua bán nhà giữa bà Trịnh Thị Bích Liên với bà Trịnh Thị Kim Hoa.
1.1. Tóm tắt nội dung vụ việc:
- Vụ việc này xảy ra trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
- Nội dung vụ việc như sau:
Năm 1975, bà Nguyễn Thị Nhỡ viết giấy bán toàn bộ nhà đất tại số 174 tổ
11C (nay là số 4 ngõ 285) Đông Kim Ngưu, Thanh Lương, hai Bà Trưng, Hà
Nội cho ông Nguyễn Văn Ký.
6
Ngày 10/04/1987, ông Nguyễn Văn Ký viết giấy bán cho ông Nguyễn
Thành Lợi 27,5 m
2
đất.
Năm 1992, ông Nguyễn Thành Lợi kết hôn với bà Trịnh Thị Bích Liên và
chung sống tại nhà đất trên. Năm 1998, vợ chồng ông Lợi kê khai xin cấp giấy
chứng nhận quyền sử hữu nhà và quyền sử dụng đất ở. Ngày 01/07/2002 ông bà
được Uỷ ban nhân dân quận Hai Bà Trưng cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà và quyền sử dụng đất ở.
Do có nhu cầu ở rộng hơn nên vợ chồng ông Lợi có mua một căn nhà số 2
ngõ 285 Đông Kim Ngưu phía ngoài liền kề với căn nhà số 4 ngõ 285 Đông
Kim Ngưu, Hai Bà Trưng, Hà Nội và chuyển sang ở từ tháng 04/2000. Còn căn
nhà số 4 ngõ 285 Đông Kim Ngưu, ông bà Lợi đã cho thuê và đến tháng
02/2003 thì cho bà Trịnh Thị Kim Hoa, là em ruột của bà Liên, cùng chồng là
ông Trương Văn Thái vào ở nhờ. Nay bà Liên đã làm đơn lên tòa có yêu cầu vợ
chồng bà Hoa, ông Thái phải trả lại nhà cho vợ chồng bà.
Ngược lại, vợ chồng bà Hoa ông Thái có lời khai là ở thuê nhà của bà
Trịnh Thị Thu từ tháng 6/2002, hai bên có làm hợp đồng thuê nhà và đã trả lại
nhà cho bà Thu từ tháng 11/2006. Bà Hoa được bà Thu và bố của bà là ông
Trịnh Quang Thình cho biết: bà Thu đã mua lại nhà số 4 ngõ 285 Đông Kim
Ngưu của vợ chồng bà Liên ông Lợi từ cuối năm 1999; chính bố của bà là
người đã trực tiếp mang 78 triệu đồng sang trả cho vợ chồng bà Liên ông Lợi.
Bà Trịnh Thị Thu - người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khẳng định đã
mua căn nhà này của vợ chồng bà Liên ông Lợi với giá 98 triệu đồng vào cuối
năm 1999 đầu 2000. Ông Thình, bố đẻ của bà, đã đưa trả cho vợ chồng bà Liên
ông Lợi 78 triệu đồng, còn 20 triệu đồng bà Thu đã trực tiếp đưa cho vợ chồng
bà Liên ông Lợi sau 2 ngày. Hai bên đã làm giấy tờ mua bán nhà nhưng không
qua phường xác nhận. Sở dĩ bà nhờ ông Thình mang tiền sang trả hộ vì lý do
duy tâm: bà không được tuổi mua nhà. Vợ chồng bà Liên ông Lợi cam kết khi
nào phường cấp sổ đỏ sẽ làm thủ tục chuyển tên và làm sổ đỏ cho bà. Khi mua
7
xong, bà Thu đã cho 4 người ở thuê trong đó có vợ chồng bà Hoa ông Thái ở
thuê từ tháng 6/2002 đến tháng 11/2006 và từ tháng 8/2008 đến nay, bà cho ông
Trịnh Quang Vinh, là em trai của bà, vào ở thuê. Nhưng sau khi vợ chồng bà
Liên ông Lợi đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng
đất ở, đã không giao giấy tờ mua bán và làm thủ tục chuyển nhượng nhà ở cho
bà Thu, mặc dù bà Thu đã yêu cầu nhiều lần. Bà Liên không thực hiện vì bà
không thừa nhận việc mua bán nhà với bà Thu. Ngày 29/8/2005 bà Thu có đơn
yêu cầu độc lập đề nghị Toà án xem xét hợp đồng mua bán nhà giữa bà với vợ
chồng bà Liên ông Lợi.
Tại bản án số 02/DSST ngày 17/6/2008 Toà án nhân dân quận Hai Bà
Trưng đã xử:
+ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị Bích Liên về việc
yêu cầu bà Trịnh Thị Kim Hoa trả lại nhà ở nhờ đối với ngôi nhà số 4 ngõ 285
Đông Kim Ngưu, Thanh Lương, Hai Bà Trưng, Hà Nội, do : “thời hiệu khởi
kiện đã hết”.
+ Chấp nhận yêu cầu của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà
Trịnh Thị Thu. Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà và quyền
sử dụng đất giữa bà Trịnh Thị Bích Liên, ông Nguyễn Thành Lợi và bà Trịnh
Thị Thu. Công nhận bà Trịnh Thị Thu có quyền sở hữu căn nhà và quyền sử
dụng 27,47m
2
đất ở đối với căn nhà và diện tích ở tại số 4 ngõ 285 Đông Kim
Ngưu, Thanh Lương, Hai Bà Trưng, Hà Nội.
1.2. Nhận xét của nhóm:
Bản án dân sự sơ thẩm số 02/DSST ngày 17/6/2008 đã xử và xác định
hợp đồng mua bán nhà giữa vợ chồng bà Liên ông Lợi và bà Thu là có căn cứ.
Tuy nhiên án sơ thẩm cho rằng thời hiệu khởi kiện đã hết nên không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của vợ chồng bà Liên ông Lợi, công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở giữa vợ chồng bà Liên ông
8
Lợi với bà Thu, và công nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở tại số 4
ngõ 485 Đông Kim Ngưu cho bà Thu là thiếu căn cứ bởi:
- Vụ việc xảy ra vào cuối năm 1999 đầu năm 2000 , do vậy áp dụng bộ
luật dân sự năm 1995 để giải quyết.
- Theo khoản 2 điều 145 BLDS 1995 quy định “ Đối với các giao dịch
dân sự được quy định tại điều 137, điều 138 và điều 139 ( do vi phạm về hình
thức ) thì thời hiệu là không bị hạn chế” do vậy việc tòa án nhân dân Quận Hai
Bà Trưng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trịnh Thị Bích về việc yêu
cầu bà Trịnh Thị Thu trả lại nhà ở nhờ đối với ngôi nhà số 4, ngõ 285, phố
Đông Kim Ngưu, Thanh Lương, Hai Bà Trưng , Hà Nội do “ thời hiệu khởi
kiện đã hết” là không có căn cứ. Ngày xác lập hợp đồng dân sự phải là ngày
bên mua và bên bán kí kết hợp đồng mua bán tại cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền . Nhưng do không có tài liệu nào xác định ngày xác lập giao dịch dân sự
này nên thời hiệu không bị hạn chế.
- Do là chị em ruột nên các bên khi mua bán căn nhà đã không ra cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền xác nhận là không tuân thủ quy định về hình thức của
hợp đồng mua bán nhà , vi phạm điều 133 BLDS 1995 (điều 450 BLDS 2005):
“.Hình thức hợp đồng mua bán nhà ở: Hợp đồng mua bán nhà ở phải được lập
thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác.”
Chính vì vậy, giao dịch mua bán nhà giữa vợ chồng bà Liên ông Lợi bị vô
hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức: điều 139 BLDS 1995 (điều 134
BLDS 2005): “Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình
thức : Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức giao dịch dân sự là điều
kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của
một hoặc các bên, Toà án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định
buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong một thời hạn;
quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu ”
9
Do vậy phải chịu hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu điều 146
BLDS 1995 “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân
sự của các bên từ thời điểm xác lập. Khi giao dịch dân sự vô hiệu, thì các bên
khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận…”
Giao dịch dân sự giữa bà Liên và bà Thu là giao dịch dân sự vô hiệu vì
vậy bà Thu phải trả lại căn nhà số 4, ngõ 285, phố Đông Kim Ngưu, Thanh
Lương, Hai Bà Trưng cho bà Liên. Do bà Liên thừa nhận có vay của bà Thu
98.000.000 đồng nên bà Liên có nghĩa vụ trả lại bà Thu 98.000.000 đồng và cần
phải định giá lại tài sản đang tranh chấp tại thời điểm bà Thu mua nhà so với
thực tế hiện tại.
2. Vụ việc thứ hai: tranh chấp hợp đồng mua bán nhà giữa nguyên đơn là
anh Nguyễn Ngọc Thành với bị đơn là ông Đỗ Quang Dũng.
2.1. Tóm tắt nội dung vụ việc
- Vụ việc xảy ra trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
- Nội dung vụ việc:
Ngày 15/08/1996, vợ chồng ông Dũng lập hợp đồng chuyển nhượng 50
m
2
đất
cho anh Thành với giá 1 tỷ đồng, nhận trước 500 triệu. Hai bên cam kết
đến ngày 30/04/1997 anh Thành giao đủ số vàng còn lại sẽ làm giấy tờ sang tên,
chi phí giấy tờ mỗi bên chịu một nửa. Theo anh Thành thì anh đã giao cho ông
Dũng nhiều lần, tổng cộng là 960 triệu đồng là đủ, vì số đất thực tế anh nhận là
48 m
2
.
Ngày 26/09/1996 ông Dũng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng 80
m
2
đất. Nhưng ông Dũng không chịu làm thủ tục tách hộ nên anh Thành khởi
kiện đến tòa án, yêu cầu ông Dũng hoàn tất thủ tục sang nhượng theo cam kết.
Về phía ông Dũng cho rằng, anh Thành mới giao cho ông 500 triệu nên
ông không làm thủ tục tách hộ cho anh Thành. Ông cho rằng anh Thành đã vi
phạm cam kết nên ông yêu cầu hủy hợp đồng.
10
Tại bản án sơ thẩm số 6/DSST ngày 15/04/1998, tòa án nhân dân huyện
Phủ Lý, tỉnh Hà Nam quyết định: hủy hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất
giữa Dũng – Thành. Buộc ông Dũng trả cho anh Thành 500 triệu, buộc anh
Thành giao lại cho ông Dũng 48 m
2
đất.
Ngày 19/04/1998, ông Dũng có đơn kháng cáo.
Tại bản án phúc thẩm số 264/DSPT ngày 03/09/1998, Tòa án nhân dân
tỉnh Hà Nam quyết định: hủy toàn bộ hợp đồng sang nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông Dũng và anh Thành, ông Dũng trả lại anh Thành 960 triệu.
Sau khi xét xử phúc thẩm, anh Thành có nhiều đơn khiếu nại.
Tại quyết định số 55/KN-DS ngày 22/04/1999, phó chánh án tòa án nhân
dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm nêu trên.
Tại quyết định giám đốc thẩm số 31/GĐT-DS ngày 24/09/1999, tòa dân
sự tòa án nhân dân tối cao quyết định: hủy bản án phúc thẩm số 264/DSPT ngày
03/09/1998 của tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xử việc tranh chấp hợp đồng sang
nhượng đất giữa anh Nguyễn Ngọc Thành với ông Đỗ Quang Dũng.
Giao hồ sơ vụ án về tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xét xử theo thủ tục
phúc thẩm.
Tòa dân sự tòa án nhân dân tối cao nhận định việc ông Dũng sang
nhượng 48 m
2
đất tại xã An Đổ, huyện Phủ Lý cho anh Thành là hoàn toàn tự
nguyện. Trên thực tế, anh Thành đã nhận đất để canh tác. Do việc ông Dũng
không tách bộ diện tích đất đã sang nhượng cho anh Thành nên xảy ra tranh
chấp. Anh Thành lại nói rằng đã trả đủ 960 triệu đồng nhưng chỉ có lần đầu ghi
biên nhận. Về phía ông Dũng cho rằng anh Thành mới giao 500 triệu đồng. Số
còn lại anh Thành chưa thanh toán.
Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào lời khai của anh Thành và các nhân
chứng để khẳng định ông Dũng đã nhận đủ 960 triệu là chưa có căn cứ vững
chắc. Mặt khác giữa ông Dũng và anh Thành đều thừa nhận hai bên đã đến gặp
chính quyền địa phương để làm thủ tục sang nhượng đất nhưng do mới tách xã
11
nên chính quyền chưa làm được. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng hai bên không
tiến hành làm thủ tục sang nhượng và xác định hợp đồng giữa Dũng – Thành là
vô hiệu là không đúng.
Vì vậy cần phải hủy bản án phúc thẩm để điều tra, xét xử lại theo hướng
công nhận hợp đồng sang nhượng đất giữa ông Dũng với anh Thành, đồng thời
xác minh thêm về khoản tiền anh Thành đã giao cho ông Dũng sau ngày
15/08/1996, nếu anh Thành không chứng minh được đã giao đủ tiền cho ông
Dũng thì anh Thành thanh toán tiếp cho ông Dũng tỷ lệ diện tích đất còn lại
theo thời giá.
2.2. Nhận xét của nhóm
Theo chúng tôi, trong vụ án này cần xác định hợp đồng mua bán nhà đất
nêu trên là hợp đồng vô hiệu vì các bên không tuân thủ các quy định về hình
thức theo quy định của pháp luật hiện hành (trong trường hợp đối tượng là bất
động sản). Lẽ ra tòa án cần căn cứ điều 131, 136 Bộ luật dân sự tuyên bố hợp
đồng mua bán nêu trên là vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức và
giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo điều 146, Bộ luật dân sự mới thỏa
đáng và phù hợp với thực tế của vụ án. Tòa án cấp giám đốc thẩm khi nêu lý do
tách xã nên hai bên không làm được thủ tục hình thức là căn cứ để công nhận
hợp đồng là không đúng.
Như vậy, hợp đồng giữa ông Dũng và anh Thành được xác định là vô
hiệu, nhưng để đảm bảo quyền lợi cho các bên thì phải xác định số tiền thực tế
anh Thành đã đưa cho ông Dũng, điều này phụ thuộc vào việc anh Thành có
đưa ra được các chứng cứ và nhân chứng chứng minh cho việc anh đã giao đủ
960 triệu cho ông Dũng hay không. Nếu anh Thành chứng minh được đã giao
đủ tiền cho ông Dũng thì buộc ông Dũng phải hoàn trả cho anh Thành số tiền
trên và anh Thành giao lại 48 m
2
đất cho ông Dũng.
12
3. Vụ việc thứ ba: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc và mua bán nhà giữa
nguyên đơn là bà Trần Thị Lượt với bị đơn là anh Vũ Diễm Sơn và chị
Đoàn Thị Phượng.
3.1. Tóm tắt nội dung vụ việc
- Vụ việc xảy ra trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Nội dung vụ việc:
Cuối tháng 10/2006 bà Lượt đọc báo thấy anh Sơn có nhu cầu bán nhà,
thống nhất giá cả là 570 trieu đồng. Nguồn gốc nhà đất tài 492 Bạch Mai là của
bố mẹ cho 2 anh em chị phượng ( vợ anh sơn), sau đó anh trai chị không ở đấy
nữa, nên cho hai vợ chồng chị phượng toàn quyền sử dụng sở hữu. Anh Sơn
hứa sẽ làm đầy đủ giấy tờ hợp pháp cho căn nhà đồng thời có sự ra mặt của anh
trai chị Phượng – là anh Huấn chứng thực nguồn gốc căn nhà, nên bà Lượt yên
tâm mua nhà. Ngày 14.11.2006, bà Lượt và vợ chồng anh Sơn tiến hành làm
hợp đồng mua bán ngôi nhà trên, với người làm chứng là bà Nguyễn Thị Cúc
Ngày 14.11.2006 bà Lượt trả số tiền lần 1: 100.000.000 đồng
Ngày 15.11.2006 bà trả số tiền lần 2: 230.000.000 đồng
Hai bên cam kết miệng: sau khi vợ chồng anh Sơn làm giấy tờ xác nhận
nhà đất hợp pháp, bà Lượt hoàn trả nốt số tiền là 240.000.000. Anh Sơn hẹn với
bà Lượt đến ngày 1.12.2006 cùng ra UBND phường Trương Định để cùng hoàn
tất thủ tục mua bán.
Đến hẹn, anh Sơn không đến, bà Lượt biết được việc làm giấy tờ nhà đất
hợp pháp đã không thành, đã làm ầm ĩ đòi lại tiền mua nhà. Anh Sơn đã viết
cam kết trả lại số tiền 330.000.000 cho bà Lượt với lý do không hoàn thành
được thủ tục bán nhà và sẽ trả tiền vào ngày 4.12.2006. Đến hẹn anh chị lại khất
đến 14.12.2006, sau đó lại khất đến khi nào anh chị bán được nhà. Hẹn nhiều lần
như vậy không thấy a chị trả tiền, bà Lượt đã làm đơn ra Công an và UBND
phường. Trước đại điện UBND và Công an phường, anh Sơn nói nếu bà chịu
mất 100.000.000 đồng thì sẽ trả 230.000.000 đồng theo giấy mua bán đề cùng
13
ngày 14.11.2006 ( với lý do bà Lượt không tiếp tục thực hiện hợp đồng, phải
chịu phạt 100.000.000 đồng theo như đã cam kết )
Tại bản án số 08/2007/DSST ngày 12/4/2007 của Tòa án nhân dân quận Hai
Bà Trưng đã xử và quyết định:
- Tuyên bố hủy hợp đồng mua bán nhà 492 Bạch Mai, Hà Nội giữa bà Trần
Thị Lượt với anh Vũ Diễm Sơn, chị Đoàn Thị Phượng do hợp đồng vô hiệu toàn
bộ.
- Buộc anh Vũ Diễm Sơn và chị Đoàn Thị Phượng phải trả lại cho bà Trần
Thị Lượt toàn bộ số tiền đã nhận là 330 triệu đồng.
3.2. Nhận xét của nhóm
Đơn kháng cáo của anh Vũ Diễm Sơn và chị Đoàn Thị Phượng làm trong
thời hạn luật định và đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm là hợp lệ.
Đơn kháng cáo của anh Sơn và chị Phượng có 4 nội dung chính:
- Đề nghị xem xét yêu cầu hản tố của bị đơn.
- Tòa án sơ thẩm chưa điều tra về nguồn gốc căn hộ bị đơn bán cho nguyên
đơn.
- Đề nghị cho bị đơn một thời gian đê hoàn tất thủ tục nhà đất.
- Nguyên đơn tự ý phá hợp đồng không mua bán nữa thì là người có lỗi nên
phải chịu phạt cọc 100 triệu đồng, nay chỉ đồng ý trả 230.000.000 đồng.
Xét các đơn kháng cáo từ phía bị đơn, hội đồng xét xử sơ thẩm buộc bên bán
là bị đơn phải trả cho bên mua số tiền đã nhận là 330.000.000 theo đúng pháp luật.
Tòa án cấp phúc thẩm bác bỏ đơn kháng cáo của bị đơn. Trong vụ việc này Toàn
án phúc thẩm đã xét xử đúng.
Còn mức lãi suất của số tiền chậm trả khi thi hành án do tòa án sơ thẩm xác
định chưa phù hợp điều 305 Bộ luật dân sự năm 2005 nên phải sửa án sơ thẩm.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét