Thứ Sáu, 18 tháng 4, 2014

một số giải pháp để xây dựng đời sống tinh thần ở tây ninh liên quan đến ảnh hưởng của đạo cao đài


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "một số giải pháp để xây dựng đời sống tinh thần ở tây ninh liên quan đến ảnh hưởng của đạo cao đài": http://123doc.vn/document/1055007-mot-so-giai-phap-de-xay-dung-doi-song-tinh-than-o-tay-ninh-lien-quan-den-anh-huong-cua-dao-cao-dai.htm


Chơng 1
Lịch Sử Hình Thành Phát Triển
Và Những Đặc Điểm Của Đạo CAO Đài
Từ giữa thế kỷ XIX cho đến nay, không riêng gì ở Việt Nam, trên
thế giới xuất hiện nhiều thứ đạo cùng với sự tiếp tục tồn tại các tôn giáo cũ,
hàng loạt các giáo phái mới ra đời. Nhiều phong trào xã hội, chính trị xuất
hiện mang màu sắc tôn giáo. Theo thống kê, chỉ riêng trong thế kỷ XX, trên
thế giới có trên ba, bốn ngàn hiện tợng tôn giáo lớn nhỏ ra đời nhng số trụ
lại đợc với thời gian không nhiều chỉ khoảng hơn chục đạo tồn tại với số tín
đồ khiêm tốn, phần đông là từ các tôn giáo khác tách ra. Những tôn giáo đó
đều có chung một đặc điểm là: phải dựa vào các tôn giáo truyền thống ở nơi
xuất phát, biến đổi ít nhiều về mặt giáo lý và nghi thức, dới nhãn hiệu cải
cách, canh tân, thêm hoặc bớt những yếu tố trong điều kiện xu thế giao lu
văn hóa đợc mở rộng. Các đạo giáo mới đó tìm ra đợc mục đích hấp dẫn
bằng nhiều vẻ: cả về tôn giáo, chính trị, kinh tế, văn hóa , trớc hết với quần
chúng tại chỗ, sau đó mới phát triển ra bên ngoài. Những tôn giáo đứng đợc
phụ thuộc nhiều vào bản thân (nội dung, hình thức), vào các nhân vật sáng
lập và nhất là đáp ứng đợc tâm lý xã hội của quần chúng tín đồ. ở đó quần
chúng thấy đợc một cái gì hấp dẫn (tuy có thể nhiều hay ít) so với các tôn
giáo cùng thời. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ gọi tắt là đạo Cao Đài, một tôn
giáo rất trẻ xuất hiện vào đầu thế kỷ XX trên mảnh đất Nam Bộ, đã tồn tại
và phát triển đợc do đáp ứng đợc những nhu cầu này, do đã tìm ra đợc một
lực thu hút, một cung cách thích hợp tâm linh tôn giáo của những ngời nông
dân tứ xứ Nam Bộ, trong đó có Tây Ninh.
1.1. Hoàn Cảnh KINH Tế Xã Hội Với Sự Hình Thành Và Phát
Triển Của Đạo CAO Đài
Sự xuất hiện của một tôn giáo mới hay một hiện tợng tôn giáo
không bao giờ là điều ngẫu nhiên, mà nó đợc qui định bởi một bối cảnh lịch
5
sử nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu tâm lý, tín ngỡng của một bộ phận cộng
đồng dân c, cộng đồng lãnh thổ trớc khi trở thành phổ biến. Chính vì thế,
đạo Cao Đài cũng nh các tôn giáo khác chỉ là hình thái ý thức xã hội ra đời
gắn liền với quá trình phát triển của xã hội. Suy cho cùng sự ra đời, phát
triển và mất đi của một tôn giáo là do sự phát triển của điều kiện kinh tế -
chính trị - xã hội nhất định. Muốn tìm nguồn gốc ra đời của tôn giáo nào
phải tìm ngay ở "thế giới trần tục" chứ không phải ở đấng siêu nhiên nào.
Khoa học mác xít kiên quyết bác bỏ những lời khẳng định thiếu khoa học
của những nhà thần học rằng: tôn giáo ra đời do ý định của đấng siêu nhiên
nào đó. Ăngghen nói: "Bất cứ tôn giáo nào cũng đều chỉ là sự phản ánh h ảo
vào đầu óc ngời ta những sức mạnh ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng
ngày của họ, chỉ là sự phản ánh mà trong đó có sức mạnh ở thế gian mang
hình thức siêu thế gian" [1, 547-549]. Luận điểm trên giúp cho ta hớng
nghiên cứu vào điều kiện kinh tế - chính trị - t tởng cho sự xuất hiện tôn
giáo nói chung và đạo Cao Đài nói riêng. Nói cách khác, sự xuất hiện và
phát triển của đạo Cao Đài có thể lý giải bằng chính môi trờng sinh ra nó.
Hoàn cảnh kinh tế - chính trị - xã hội
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Pháp là nớc thắng trận song
cũng là nớc bị tổn thất nặng nề nhất, lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm
trọng. Để hàn gắn vết thơng chiến tranh, đế quốc Pháp ra sức bóc lột thuộc
địa ở Đông Dơng nơi có thể đáp ứng đợc những đòi hỏi của thị trờng thế
giới lúc bấy giờ. Trong đó Việt Nam là một trong những trọng điểm của
chính sách bóc lột ấy, trở thành miếng mồi ngon cho bọn t bản tài chính
Pháp. Tình hình đó dẫn đến những biến đổi lớn về chính trị, kinh tế, xã hội
nớc ta thời bấy giờ.
Vào những năm cuối của thế kỷ XIX và khoảng 20 năm đầu của thế
kỷ XX, xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ của
Pháp. Khác với Trung bộ, Bắc bộ, Nam Bộ là nơi thực dân Pháp áp đặt
quyền cai trị trực tiếp với một bộ máy giúp việc ngời Việt. Trong lĩnh vực
6
nông nghiệp, thực dân Pháp không xóa bỏ địa chủ phong kiến mà duy trì
dung dỡng để biến chúng thành tên lính xung kích trong việc cớp ruộng đất
của nông dân và bóc lột sức lao động của nhân dân ta. Chúng đầu t và mở
rộng một số xí nghiệp công thơng nghiệp sẵn có, đặc biệt là mở ra những
đồn điền cao su ở vùng đất đỏ Nam kỳ và Cao Miên, chiếm đoạt hàng loạt
mẫu ruộng, đất rừng, đồng cỏ, cùng với nó là thi hành chế độ mộ phu cực
kỳ tàn bạo.
Chính sách thuế khóa nặng nề, hàng trăm thứ thuế bất công đợc đặt
ra, các độc quyền rợu, thuốc phiện, muối, vừa thâm độc vừa tàn ác, vừa đem
lại nhiều lợi nhuận cho ngân khố thực dân Pháp, vừa đầu độc dân ta về thể xác
lẫn tinh thần. Chính sách thuế nặng nề, cộng với nạn cho vay nặng lãi mà thủ
phạm chính là ngân hàng Đông Dơng của chủ nghĩa t bản tài chính Pháp đã
bao trùm lên làng quê Việt Nam nh một bệnh dịch khủng khiếp.
Nông dân mất đất, một số ít vào nhà máy, xí nghiệp hầm mỏ đồn
điền của Pháp và của một số t bản Việt Nam để bán sức lao động trở thành
ngời công nhân, còn đại đa số trở thành những tá điền bán sức lao động
ngay trên mảnh đất của chính mình trớc đây, hoặc lang thang vất vởng
không có việc làm.
Tất cả các giai cấp trong xã hội Việt Nam lúc đó tuy mức độ khác
nhau, hoặc ít hoặc nhiều có mâu thuẫn với thực dân Pháp. Mâu thuẫn cơ
bản trong thời kỳ này là mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với thực dân
Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ. Nhng mâu thuẫn nổi lên, mâu
thuẫn chủ yếu vẫn là giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với bọn đế quốc xâm
lợc Pháp.
Tình hình ấy đã đa cuộc đấu tranh của tầng lớp nhân dân nhất là ở
Nam Bộ chống thực dân Pháp ngày càng quyết liệt. Tuy nhiên, do hạn chế
của giai cấp mình, nông dân không thể tự giải phóng đợc. Lúc đó lại cha có
sự lãnh đạo dìu dắt của Đảng cộng sản - một chính Đảng của giai cấp vô
sản, do vậy, cuộc đấu tranh của nhân dân lần lợt bị thực dân Pháp dìm trong
7
bể máu. Bế tắc trong cuộc sống và bế tắc trong đấu tranh chống thực dân
Pháp càng thúc đẩy số đông quần chúng tìm đến tôn giáo, trong đó đạo Cao
Đài, những mong đợc sự an ủi che chở, do tôn giáo này khi mới xuất hiện ít
nhiều mang tính phản kháng xã hội đơng thời.
Một vấn đề t tởng quan trọng dẫn đến sự ra đời và phát triển của đạo
Cao Đài là sự khủng hoảng, suy thoái của các tôn giáo, đạo lý đơng thời.
Nhân dân Nam Bộ có nhu cầu tín ngỡng rất lớn. Khi đạo Cao Đài cha ra
đời, số đông nhân dân theo đạo Phật, đạo Nho và một số ít theo đạo Công
giáo. Nhng đến giai đoạn này, những tôn giáo ấy mất dần uy tín vì chậm
thích nghi với sự phát triển của xã hội. Đạo Công giáo lúc đó dới mắt của
ngời Nam Bộ, gắn liền với sự xâm lợc của thực dân Pháp, nên bị nghi ngờ,
thậm chí khinh ghét. Đạo Nho là một học thuyết đạo đức, chính trị chỉ phù
hợp với chế độ quân chủ nông nghiệp, đến nay không còn thích hợp với
nhân dân Nam Bộ đang chuyển sang nền kinh tế thị trờng với sự phát triển
của công nghiệp và xu hớng Âu hóa (do Pháp áp dụng ở Nam kỳ chế độ
thuộc địa trực trị). Đạo Phật tiểu thừa tại chỗ với phơng châm "Tự độ, tự
tha" chỉ giải thoát cho ai xuất gia tu hành, khó hòa nhập với phong tục, lối
sống của ngời Nam Bộ. Đạo Phật Đại thừa bị suy vị từ mấy thế kỷ trớc, nay
lại chia rẽ thêm nhiều tông phái, nhất là sự xâm nhập các yếu tố mê tín dị
đoan của đạo Lão. Đạo thờ cúng tổ tiên trong đó có đạo ông bà, tuy gần gũi
nhng cha đủ thỏa mãn tâm linh tôn giáo Nói tóm lại, sự suy sụp của các
tôn giáo và đạo lý đơng thời đã tạo ra khoảng trống về t tởng tín ngỡng, tạo
điều kiện cho đạo Cao Đài ra đời và phát triển.
Tham gia trực tiếp vào việc hình thành đạo Cao Đài còn có tục cầu
hồn, cầu tiên và nhất là t tởng "Tam giáo đồng nguyên" (Phật, Lão, Nho)
vốn có ở nớc ta từ lâu đời. Đặc biệt, từ đầu năm 1920, phong trào "Thần
linh học" một hình thức mê tín của các nớc phơng Tây, tơng tự nh tục cầu
hồn, cầu tiên, đã thâm nhập vào Nam Bộ, đợc đông đảo tầng lớp trung lu: t
sản, địa chủ, tiểu t sản, công chức đón nhận. Nó nhanh chóng hòa nhập với
8
tục cầu tiên, trở thành phong trào "cầu cơ" - "chấp bút" (gọi tắt là cơ bút)
phát triển khá sôi nổi trong những năm 1924 - 1925 - 1926 ở vùng Sài Gòn,
Gia Định, Cần Thơ, Mỹ Tho, Tân An dẫn đến việc ra đời đạo Cao Đài.
Có thể nói sự ra đời và phát triển của đạo Cao Đài ở Nam Bộ vào
những năm đầu thế kỷ XX là do tổng hợp những nguyên nhân. Đó là: sự bế
tắc của nhân dân trong cuộc sống; đấu tranh chống thực dân Pháp thất bại
do cha có đờng lối chính trị đúng đắn soi đờng; sự thoái hóa của các tôn
giáo đơng thời và truyền thống "tam giáo đồng nguyên". Cộng vào đó, là
tục cầu hồn, cầu tiên và sự thâm nhập của tâm linh học Nếu không có
những nguyên nhân trên thì một nhóm t sản, địa chủ, tiểu t sản, công chức
Pháp - những ngời sáng lập đạo Cao Đài cũng không thể ra đời và phát triển
đợc.
Nhìn chung, đạo Cao Đài ra đời trong bối cảnh lịch sử nhất định và
phát triển mạnh mẽ trong cộng đồng dân c Nam Bộ dới chiêu bài hòa bình,
tự do, dân chủ. Cơ sở của đạo Cao Đài là ngời nông dân yêu nớc, trong khi
hạt nhân lãnh đạo lại là những tri thức công chức, do Pháp đào tạo và làm
việc cho Pháp, cho nên định hớng của từng chi phái chịu ảnh hởng khá
mạnh tinh thần yêu nớc hay mu cầu danh lợi cá nhân của hạt nhân lãnh đạo.
Về mặt tín đồ, theo số liệu Ban Dân vận Trung ơng đến năm 1975 số tín đồ
Cao Đài đã lên đến 3 triệu ngời. Lực lợng đông đảo tín đồ là quần chúng
nông dân lao động yêu nớc, họ vào đạo vì nhiều lý do khác nhau, có thể vì
mê tín, vì lầm lạc, vì mâu thuẫn giai cấp, vì lợi ích riêng t, hoặc bị cỡng ép
phải "nhập môn". Bản chất của tín đồ là tốt, mong muốn độc lập, tự do,
hạnh phúc. Ngời tín đồ Cao Đài gắn bó với đạo vì t tởng đoàn kết tơng trợ,
thơng yêu đùm bọc lẫn nhau trong sản xuất và trong sinh hoạt xã hội. Song,
trong quá trình theo đạo họ bị đầu độc bằng giáo lý mơ hồ, phản động, bằng
luận điệu chống cộng, bị quyến rũ bằng lợi ích vật chất, bị khống chế, kìm
kẹp bởi bộ máy hành chính đạo và ngụy quân, ngụy quyền. Vì thế nhiều ng-
ời, đôi khi họ nhìn cách mạng, một cách sai lệch, lẫn lộn giữa bạn và thù.
9
Một vấn đề quan trọng là đạo Cao Đài dù phát triển khá nhanh và mạnh nh-
ng không phải tuyệt đại đa số nhân dân một khu vực hành chính nào đó đều
là tín đồ Cao Đài. Ngay tỉnh Tây Ninh, tín đồ Cao Đài chỉ chiếm dới 50%
dân số (thống kê tín đồ Cao Đài các tỉnh Nam Bộ năm 1943, 1966, 1993
cũng cho thấy tình hình nh thế). Phát triển ra miền Trung và miền Bắc Việt
Nam thì kết quả không cao lắm vì bối cảnh ra đời của đạo Cao Đài liên
quan chặt chẽ đến c dân Nam Bộ. Tình hình trên cùng nội dung của giáo lý
Cao Đài trong bớc đầu xây dựng cha đợc trọn vẹn, nếu không có sự thay đổi
sẽ không còn sức thuyết phục, nếu trình độ dân trí đợc nâng cao, nhất là khi
những yếu tố công nghiệp và khoa học kỹ thuật len dần vào nông thôn. Đó
là điều cần suy nghĩ về tơng lai của đạo Cao Đài [46, 145].
1.2. Những Đặc Điểm của Đạo CAO Đài
Ra đời năm 1926 đến nay đạo Cao Đài vẫn tồn tại nh một tôn giáo ở
Việt Nam và đợc Nhà nớc công nhận. Tòa thánh Cao Đài Tây Ninh, Trung -
ơng của phái Cao Đài Phổ Độ do Phạm Công Tắc, Lê Văn Trung và Cao
Hoài Sang lãnh đạo là nơi sinh hoạt mạnh mẽ nhất của đạo Cao Đài, với sự
tập trung tín đồ cao nhất và là chi gốc từ đó phân tách ra hầu hết các hệ phái
khác. Vì vậy, có thể nói Cao Đài Tây Ninh mang tính tiêu biểu cho những
đặc điểm sinh hoạt tôn giáo của đạo Cao Đài, vì hầu hết các hệ phái đều
xây dựng giáo hội theo Pháp chánh truyền - Tân luật đợc xây dựng từ những
năm đầu thành lập đạo.
1.2.1. Những nét tơng đồng và khác biệt của đạo Cao Đài đối với
các tôn giáo khác
- Xét về nguồn gốc: đạo Cao Đài ra đời cũng giống nh các tôn giáo
lớn khác là đều bắt nguồn từ hiện thực xã hội. Đạo Phật ra đời ở ấn Độ bắt
nguồn từ những trào lu t tởng chống lại chế độ đẳng cấp và đạo Bà La môn;
Đạo Công Giáo ra đời khoảng thế kỷ thứ IV - II (trớc công nguyên), do
những mâu thuẫn cơ bản, sâu sắc và quyết liệt giữa chủ nô và nô lệ. Nó đã
10
bùng nổ thành các cuộc khởi nghĩa vũ trang mang tính quần chúng rộng rãi
chống lại các giai cấp chủ nô và quân xâm lợc không chỉ ở những vùng bị
chinh phục mà ngay cả chính quốc. Tuy nhiên, đế quốc La Mã lúc đó còn
rất mạnh đã nhanh chóng đàn áp các cuộc khởi nghĩa một cách dã man tàn
bạo. Trong tâm trạng mệt mỏi và tuyệt vọng, quần chúng lao khổ trông chờ
vào sự giúp đỡ của lực lợng siêu nhiên, một vị thần hay một đấng cứu thế để
đánh đổ đế quốc La Mã, giải phóng dân tộc xây dựng một vơng quốc của sự
công bằng. Tôn giáo ra đời trong hoàn cảnh nh thế. Đối với đạo Cao Đài
cũng xuất phát từ hoàn cảnh chính trị xã hội, nhng nguyên nhân ra đời của
đạo Cao Đài là một vấn đề còn có cách nhìn nhận khác nhau. Theo thống kê
của Fayne Su san Werner trong giới sáng lập Cao Đài có 39% là địa chủ;
37% là tiểu t sản; 8% là kỳ hào; 16% là các nhân vật hoạt động tôn giáo
[34, 2].
Nh vậy trong chừng mực nhất định cũng có thể so sánh sự ra đời của
Đạo Cao Đài với đạo Ki tô sơ kỳ -phong trào của nô lệ và các dân tộc Ph-
ơng Đông chống lại sự xâm lợc của Đế quốc La Mã thời Cổ đại. Tuy nhiên
có sự khác nhau giữa đạo Ki tô và đạo Cao Đài. Đạo Ki tô do những ngời
nô lệ khởi xớng, còn đạo Cao Đài do những tầng lớp trên (t sản, địa chủ,
tiểu t sản) chủ trơng.
- Xét về tính chất chính trị: Các tôn giáo theo mức độ đều mang bản
sắc hoặc ảnh hởng ít nhiều tính chất chính trị sâu sắc, nhng đối với đạo Cao
Đài màu sắc chính trị lại nổi bật. Biểu hiện trớc hết đạo Cao Đài là sản
phẩm của giai cấp địa chủ và t sản. Với tổ chức này họ đầu cơ chính trị, lợi
dụng sự bế tắc của nhân dân Nam Bộ trong cuộc đấu tranh yêu nớc, để qui
tụ lực lợng thực hiện ý đồ giành quyền lãnh đạo chính trị trong những năm
20 của thế kỷ XX này, còn tôn giáo chỉ là cái vỏ bên ngoài. Cụ thể là những
ngời thành lập và cầm đầu đạo Cao Đài đã ngày càng đi sâu vào hoạt động
chính trị. Họ thành lập quân đội và luôn hớng về phía cải lơng, muốn biến
Cao Đài thành quốc đạo với mục tiêu là thiết lập chế độ quân chủ ở Việt
11
Nam. Với xu hớng đó mặc dù là một tôn giáo, nhng những ngời cầm đầu
Cao Đài đã xây dựng hội thánh với cả bộ máy có tổ chức từ Trung ơng đến
địa phơng giống nh một kiểu Nhà nớc quân chủ lập hiến hoàn chỉnh. Bộ
máy này có phân biệt nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của từng cơ quan,
cũng nh thứ bậc của từng chức sắc, rõ ràng tỷ mỷ với ý đồ là khi giành
chính quyền, họ sẽ dùng bộ máy hành chính đạo thay cho bộ máy Nhà nớc.
Trong quá trình hình thành và phát triển Cao Đài có hàng loạt các tổ chức
chính trị nh: "Việt Nam Phục Quốc" "Liên tôn chống cộng", "Hòa bình
chung sống", "Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia", và hàng loạt các tổ
chức chính trị khác kể cả việc thành lập quân đội Cao Đài. Điều đó thể hiện
rõ tính chất chính trị của đạo Cao Đài hết sức rõ nét. Nét tiêu biểu nhất của
tính chất chính trị của đạo Cao Đài trong quá trình hoạt động là vọng ngoại
và chống cộng sản.
- Xét về đặc điểm giáo lý và sự thờ phụng: Giáo lý đạo cao Đài
không có hệ thống các tín điều có chiều sâu dựa trên những cơ sở triết học,
thần học nh những tôn giáo khác. Những điều đạo Cao Đài coi là giáo lý
bao gồm những khái niệm về "tam giáo", "ngũ chi", "Cao Đài". "Cao Đài
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ", chỉ là sự vay mợn, kết hợp giáo lý tôn giáo, tín
ngỡng Cổ, Kim, Đông, Tây (phần này sẽ trình bày rõ hơn trong phần đặc
điểm về giáo lý và sự thờ phụng).
- Xét mối quan hệ giữa đạo Cao Đài với các tôn giáo khác trên địa
bàn tỉnh Tây Ninh:
Với lịch sử hình thành phức tạp, nhiều cộng đồng dân c, Tây ninh
tồn tại nhiều tín ngỡng dân gian và sự tồn tại, phát triển của 4 tôn giáo lớn:
Ki tô giáo, Phật giáo, Hồi giáo và Cao Đài. Các tôn giáo đều có đối tợng tín
đồ riêng, những cơ sở thờ phụng riêng đợc Nhà nớc công nhận và hoạt động
theo luật đạo, theo chính sách tôn giáo của Nhà nớc.Thế nhng không thể
phủ nhận vai trò chủ đạo của đạo Cao Đài trên địa bàn tỉnh Tây Ninh với số
lợng tín đồ đông đảo, thánh đờng lộng lẫy nguy nga, và trung tâm của một
12
tôn giáo bản địa. Mối quan hệ giữa đạo Cao Đài với các tôn giáo khác trên
cùng địa bàn do vậy cũng hết sức phức tạp thể hiện ở những điểm sau đây:
Với t tởng "Tam giáo đồng nguyên" hay "Tam kỳ phổ độ" trên điện
thờ của đạo Cao Đài có mặt đấng thiêng liêng của các tôn giáo khác. Có
những ngày lễ hội tôn giáo Cao Đài cũng nh ngày kỷ niệm các tôn giáo
khác nh: Vía Đức phật thích ca (ngày 15 tháng 4),và Đức Jesus chirst (ngày
25 tháng 12). Tuy nhiên các tôn giáo vẫn giữ khoảng cách với đạo Cao Đài
vì ngay từ những ngày đầu thành lập, Cao Đài đã muốn tạo dựng một tôn
giáo bao trùm lên toàn thể các tôn giáo khác và đã thật sự lấn át các tôn
giáo đơng thời ở Tây Ninh.
Với đạo Phật, đạo Cao Đài có nhiều va chạm, ngay từ những ngày
khai đạo. Lợi dụng suy yếu của Phật giáo, đạo Cao Đài tự xng là Phật giáo
canh tân, lấy thế của các quan lại hào lý không những chiếm tín đồ mà còn
cả chùa chiền của đạo Phật, gây nên sự bất mãn của các nhà s, các nhà Phật
học. Việc ra mắt đạo Cao Đài tại chùa Từ Lâm - một cơ sở của Phật giáo là
một minh họa rõ nét tình hình này (mặc dù sau đó nhà chùa đã đòi lại và
đạo Cao Đài phải tiến hành xây dựng Đền Thánh tạm ở Long Thành).
Với đạo Thiên chúa, Cao Đài cũng không gây đợc sự hòa hợp, vì tín
đồ Ki tô giáo luôn coi chúa Ki tô là hơn hết trong khi đó họ cảm thấy chúa
của mình trong Cao Đài lại chiếm địa vị khá khiêm tốn. Họ chỉ cảm thấy tự
hào vì có sự đóng góp của đạo mình cho một tôn giáo mới ra đời chứ không
muốn chuyển đạo sang Cao Đài.
Mặc dù không công khai nhng trong sinh hoạt đạo, bằng hình thức
sinh hoạt cộng đồng, sự giúp đỡ cộng đồng những ngời ngoại đạo (không
tôn giáo hoặc tín đồ tôn giáo khác), Cao Đài đang ráo riết thực hiện ý đồ lôi
kéo thu hút tín đồ các tôn giáo khác về phía mình, và đây chính là mối quan
hệ tế nhị, phức tạp nhất giữa Cao Đài với các tôn giáo khác trên địa bàn tỉnh
Tây Ninh.
13
1.2.2. Đặc điểm về thế giới quan, nhân sinh quan
- Quan điểm thế giới quan của Cao Đài tập trung ở đoạn giáo lý sau:
Nhất thái cực (tức là một đấng tối cao vô hình hay là trời) sinh ra lỡng nghi
(âm và dơng). Lỡng nghi sinh ra tứ tợng (bốn hiện tợng tự nhiên là: nắng,
ma, sáng, tối). Tứ tợng sinh ra ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ). Ngũ
hành sinh bát quái (càn, khảm, chấn, cấn, tốn, ly, khôn, đoài). Bát quái sinh
sinh hóa hóa thành thế giới muôn vật muôn loài. (Tức vật chất, thảo mộc,
côn trùng, cầm thú, thần thánh, tiên, phật ) sinh sinh, hóa hóa lu hành
trong tam thiên thế giới (ba ngàn thế giới) và lục thập bát địa cầu (68 địa
cầu). Tất cả sự vật đều có linh hồn, từ thú vật hồn đến nhân hồn, thần,
thánh, tiên, phật hồn".
Cũng nh các tôn giáo khác, đạo Cao Đài tin vào cái siêu tự nhiên,
cái không phục tùng những quy luật khách quan thoát khỏi mối liên hệ phụ
thuộc nhân quả. Không chỉ thế mà "Đức Chí Tôn" còn xóa bỏ và tạo ra
những quy luật tự nhiên nh: ma, gió, sấm, chớp, sáng, tối sáng tạo ra
nhiều điều mầu nhiệm " huyền bí". Theo quan điểm của chủ nghĩa vô thần
khoa học và triết học mác xít thì thế giới tồn tại vô tận và đa dạng, song nó
lại thống nhất ở tính vật chất. Không có thế giới thiên đờng địa ngục, nơi c
trú của thánh thần, ma quỷ nào cả. Cùng một đối tợng phản ánh là thế giới
hiện thực, nhng khoa học và tôn giáo đối lập nhau: khoa học phấn đấu phản
ánh ngày càng gần với những gì đang tồn tại, ngợc lại tôn giáo phản ánh sai
lệch, méo mó,biến dạng đi. Những lực lợng trần gian bình thờng lại mang
hình thức phi trần gian.
Sự thừa nhận lực lợng nào đó tạo ra và điều khiển thế giới là nội
dung chủ yếu của thế giới quan tôn giáo. Thế giới này là do "Đức Chí Tôn" dùng
thanh khí, mà tạo ra loài ngời và đất, biến thành vạn vật. Vì Đức Chí Tôn là chúa
tể vạn loài "có quyền năng vô đối", "Thống ngự vạn linh" [18, 41]. Đạo Cao
Đài rõ ràng là giải thích sự hình thành thế giới theo quan điểm duy tâm. Điều
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét