Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2014

thực tiển áp dụng pháp luật về hợp đồng xây dựng tại công ty tư vấn đầu tư và dịch vụ tài chính


LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "thực tiển áp dụng pháp luật về hợp đồng xây dựng tại công ty tư vấn đầu tư và dịch vụ tài chính": http://123doc.vn/document/1049627-thuc-tien-ap-dung-phap-luat-ve-hop-dong-xay-dung-tai-cong-ty-tu-van-dau-tu-va-dich-vu-tai-chinh.htm


Báo cáo thực tập chuyên ngành
1.1.1.2. Phân loại hợp đồng.
Trong Bộ Luật Dân sự Điều 406 có định nghĩa một số loại hợp đồng cơ bản.
Tuy nhiên, trong thực tiễn có rất nhiều loại hợp đồng mà chúng ta thường gặp, ta có
thể dựa vào các căn cứ khác nhau để phân loại hợp đồng như sau:
 Dựa vào hình thức của hợp đồng: thì hợp đồng được chia thành hợp đồng
miệng, hợp đồng văn bản, hợp đồng có công chứng chứng thực, hợp đồng mẫu…
 Dựa vào mối liên hệ quyền và nghĩa vụ giữa các bên: thì hợp đồng chia ra
làm hai loại hợp đồng đơn vụ và hợp đồng song vụ.
Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà các bên chủ thể đều có nghĩa vụ. Hay nói
cách khác, mỗi một bên chủ thể của hợp đồng song vụ là người vừa có quyền lại
vừa có nghĩa vụ. Trong hợp đồng này quyền của bên này đối lập tương ứng với
nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Tại Điều 406 của BLDS đã định nghĩa: “hợp
đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau”.
Hợp đồng đơn vụ là những hợp đồng mà trong đó một bên chỉ có nghĩa vụ mà
không có quyền gì đối với bên kia và bên kia là người có quyền nhưng không phải
thực hiện một nghĩa vụ nào.
 Dựa vào sự phụ thuộc lẫn nhau về hiệu lực của hợp đồng: thì hợp đồng được
phân thành hai loại hợp đồng chính và hợp đồng phụ.
Tại khoản 3 Điều 406 BLDS quy định: “hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu
lực không phụ thuộc vào hợp đồng khác”. Như vậy, các hợp đồng khi đã tuân thủ
đầy đủ các điều kiện mà pháp luật đã quy định, thì đương nhiên phát sinh hiệu lực
và có hiệu lực bắt buộc đối với các bên kể từ thời điểm giao kết.
Trái lại, “hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính”
(khoản 4 Điều 406 BLDS). Trước hết, các hợp đồng phụ muốn có hiệu lực phải
tuân thủ các điều kiện luật định về chủ thể, về nội dung, về hình thức…Mặt khác,
dù rằng đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện nói trên nhưng hợp đồng vẫn không có
hiệu lực nếu hợp đồng chính mà nó phụ thuộc không có hiệu lực.
 Dựa vào tính chất có đi có lại về lợi ích của các chủ thể: hợp đồng chia ra
thành hợp đồng có đền bù và hợp đồng không có đền bù.
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
5
Báo cáo thực tập chuyên ngành
Hợp đồng có đền bù là loại hợp đồng mà trong đó mỗi bên chủ thể sau khi đã
thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận được từ bên kia một lợi ích tương ứng.
Hợp đồng không có đền bù là những hợp đồng mà trong đó một bên nhận được
từ bên kia một lợi ích nhưng không phải giao lại một lợi ích nào.Đây là hợp đồng
mà tính chất của nó đã vượt ra khỏi quy luật giá trị bởi sự chi phối của yếu tố tình
cảm.
 Hợp đồng có điều kiện là những hợp đồng mà khi giao kết, bên cạnh việc
thỏa thuận về nội dung của hợp đồng các bên còn thỏa thuận để xác định
một sự kiện để khi sự kiện đó xảy ra, thì hợp đồng mới được thực hiện hoặc
phải chấm dứt nếu:
Thứ nhất, các sự kiện đó phải mang tính khách quan. Yêu cầu này đòi hỏi việc các
sự kiện nói trên có xuất hiên hay không, hoàn toàn nằm ngoài ý chí của chủ thể,
đồng thời phải là một tình tiết trong tương lai (chỉ xuất hiện trong khi hợp đồng đã
giao kết).
Thứ hai, điều kiện đó là một công việc phải làm, thì phải là những việc có thề thực
hiện được.
Thứ ba, sự kiện mà các bên chủ thể thỏa thuận phải phù hợp với pháp luật và không
trái đạo đực xã hội.
Trên đây là sự phân loại hợp đồng dân sự mà trong khi nghiên cứu hợp đồng
xây dựng nó có liên quan đến tính chất của từng loại hợp đồng mà ta cần phải quan
tâm. Bên cạnh đó, thì tùy theo lĩnh vực hoạt động và sự thuận lợi trong việc giải
quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thì có các loại hợp đồng như: hợp đồng
dân sự và hợp đồng trong kinh doanh…
1.1.2. Chế độ pháp lý về hợp đồng.
1.1.2.1. Giao kết hợp đồng và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.
Giao kết hợp đồng là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo những nguyên tắc và
trình tự nhất định để qua đó xác lập với nhau quyền và nghĩa vụ của mỗi bên.
 Nguyên tắc giao kết hợp đồng. Được quy định tại Điều 390 BLDS.
- Tự do giao kết hơp đồng nhưng không trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
6
Báo cáo thực tập chuyên ngành
Nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể khi giao kết hợp đồng để thỏa mãn những
nhu cầu về đời sống vật chất cũng như tinh thần, BLDS cho phép mọi chủ thể có
quyền “tự do giao kết hợp đồng”. Theo nguyên tắc này, mọi tổ chức, mọi cá nhân
khi có đủ tư cách chủ thể đều có quyền tham gia giao kết bất kỳ một hợp đồng nào
nếu họ muốn, mà không ai có quyên ngăn cản. Bằng ý chí tự do của mình, các chủ
thể có quyền giao kết những hợp đồng mà được pháp luật quy định cụ thể cũng như
những hợp đồng khác dù rằng pháp luật chưa quy định. Tuy nhiên, sự tự do đó phải
nằm trong một khuân khổ nhất định. Bên cạnh, việc chú ý đến quyền lợi của mình,
các chủ thể phải hướng đến việc bảo đảm quyền lợi của người khác cũng như lợi ích
của toàn xã hội. Vì vậy, sự tự do của mỗi chủ thể phải “ không trái pháp luật, đạo
đức xã hội”.
Trong xã xã hội chủ nghĩa, tính cộng đồng và đạo đức xã hội không cho phép
các cá nhân được tự do ý chí tuyệt đối để biến các hợp đồng thành phương tiện bóc
lột.
- Các bên tự nguyện và bình đẳng trong giao kết hợp đồng.
Nguyên tắc này thể hiện bản chất của quy luật giá trị khi thiết lập các quan hệ
trao đổi phải bình đẳng. không ai được lấy lý do là khác biệt về thành phần xã hội,
dân tộc, giới tính, tôn giáo, hoàn cảnh kinh tế… để làm mất đi cái bản chất của hợp
đồng là tự nguyện và bình đẳng giao kết. Vì thế muốn xem các chủ thể khi tham gia
giao kêt có thực hiện đúng nguyên tắc này hay không, cần phải dựa vào sự thống
nhất giữa hai phạm trù: Ý chí và sự bày tỏ ý chí. Ý chí là sự mong muốn chủ quan
bên trong của mỗi chủ thể nó phải được bày tỏ ra bên ngoài thông qua một hình
thức nhất định. Ý chí và sự bày tỏ ý chí là hai mặt của một vấn đề, chúng luôn quan
hệ mật thiết và gắn bó với nhau.
Ý chí tự nguyện chính là sự thống nhất giữa ý muốn chủ quan bên trong và sự
bày tỏ ý chí đó ra bên ngoài và nó được thể hiện rõ trong nội dung của bản hợp
đồng mà người đó đã giao kết. chỉ khi nào hợp đồng là hình thức phản ánh khách
quan, trung thực những mong muốn bên trong của các bên giao kết, thì việc giao kết
đó mới được coi là tự nguyện.
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
7
Báo cáo thực tập chuyên ngành
Như vậy, tất cả các hợp đồng được giao kết do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối hoặc
đe dọa đều là những hợp đồng không đáp ứng được nguyên tắc tự nguyện khi giao
kết. Và vì thế hợp đồng được coi là vô hiệu.
 Trình tự giao kết hợp đồng.
Trình tự giao kết hợp đồng là quá trình mà trong đó các bên chủ thể bày tỏ ý chí
với nhau bằng cách trao đổi ý kiến để đi đến thỏa thuận trong việc cùng làm xác lập
với nhau những quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Thực chất đó là quá trình mà các
bên mặc cả về những điều khoản trong nội dung của hợp đồng. Quá trình này diễn
ra thông qua hai giai đoạn:
- Đề nghị giao kết hợp đồng.
Khi một người muốn thiết lập một quan hệ hợp đồng thì ý muốn đó phải được
thể hiện ra bên ngoài bằng những hành vi cụ thể, nhất định. Chỉ có như vậy đối tác
mới nhận biết được ý muốn của họ và từ đó mới có thể đi đến việc giao kết hợp
đồng. Đề nghị khi giao kết hợp đồng là việc một bên biểu lộ ý chí của mình trước
người khác bằng cách bày tỏ cho phía bên kia biết ý muốn tham gia giao kết với
người đó một hợp đồng.
Thấy được người mà mình muốn giao kết hợp đồng với họ có thể hình dung hợp
đồng đó như thế nào, người đề nghị phải đưa ra những điều khoản hợp đồng một
cách cụ thể và rõ ràng. Việc đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện bằng nhiều
cách khác nhau. Người đề nghị có thể trực tiếp trao đổi với người được đề nghị
hoặc trao đổi thông qua điện thoại… trong những trường hợp này thì thời hạn trả lời
do hai bên ấn định. Ngoài ra đề nghị còn có thể thực hiện bằng cách chuyển công
văn, thư báo bưu điện hay fax, email…
Để đảm bảo quyền lợi cho người được đề nghị. Điều 390 BLDS quy định:
“trong trường hợp đề nghị giao kết có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại
giao kết với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi
thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có
thiệt hại phát sinh”.
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
8
Báo cáo thực tập chuyên ngành
Như vậy, lời đề nghị mặc dù nó chưa phải là một hợp đồng nhưng ít nhiều nó có
tính chất ràng buộc đối với người đề nghị. Tuy nhiên bên đề nghị vẫn có thể thay
đổi hoặc rút lại đề nghị trong những trường hợp sau:
• Bên được đề nghị chưa nhận được đề nghị.
• Bên đề nghị có nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút lại đề nghị và
điều kiện đó đã đến.
- Chấp nhận giao kết hợp đồng.
Là việc bên nhận được lời đề nghị và đồng ý tiến hành giao kết hợp đồng với
người đã đề nghị. Về nguyên tắc, bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận
giao kết hay không, trong những trường hợp cần thời gian để cân nhắc thì bên được
đề nghị phải trả lời trong thời gian đó. Nếu sau thời gian đó bên được đề nghị mới
trả lời thì khi đó lại xác định là có lời đề nghị mới của bên chậm trả lời.
Người đề nghị cũng có thể chấp nhận tất cả nội dung của người đề nghị hoặc
thay đổi khi đó lại hình thành một lời đề nghị mới và quá trình này diễn ra cho tới
khi nào các bên thỏa thuận xong và đi đến thống nhất giao kết hợp đồng hoặc hủy
bỏ lời đề nghị.
Điều kiện có hiệu lực hợp đồng là điều kiện về chủ thể phải có năng lực hành vi
và thỏa thỏa mãn các nguyên tắc khi giao kết hợp đồng.
1.1.2.2 Thực hiện hợp đồng.
Thực hiện hợp đồng là việc các bên tiến hành các hành vi mà mỗi bên tham gia
hợp đồng đều phải thực hiện nhằm đáp ứng những quyền và nghĩa vụ của mỗi bên.
 Nguyên tắc thực hiện hợp đồng.
Theo quy định tại Điều 412 BLDS có ba nguyên tắc thực hiện hợp đồng:
- Thực hiện hợp đồng, đúng đối tượng, đúng chất lượng, số lượng, chủng loại,
thời hạn, phương thức và các thỏa thuận khác;
- Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các
bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau;
- Không xâm phạm tới lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác.
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
9
Báo cáo thực tập chuyên ngành
Theo các nguyên tắc này các bên phải thực hiện đúng, đầy đủ các điều khoản
trong hợp đồng một cách thật thà ngay thẳng. Trung thực trong nghĩa vụ là việc các
bên không lừa dối nhau, thực trạng nghĩa vụ như thế nào thì các bên phải thực hiện
như vậy. các bên phải cộng tác với nhau nói rõ cho nhau hiểu cặn kẽ về đối tượng
thực hiện trong hợp đồng.
 Nội dung thực hiện hợp đồng.
Khi thực hiện hợp đồng, các bên tham gia thực hiện hợp đồng phải thực hiện
đúng, đầy đủ các điều khoản về đối tượng, địa điểm, thời hạn, phương thức và các
thỏa thuận khác mà nội dung hợp đồng đã xác định. Ngoài ra để điều chỉnh nguy cơ
không thực hiện đúng hợp đồng BLDS đã quy định về các biện pháp buộc thực hiện
hợp đồng như; quyền cầm dữ tài sản đối với bên có quyền, thực hiện hợp đồng có
thỏa thuận về phạt hợp đồng…
1.1.2.3. sửa đổi và chấm dứt hợp đồng.
 Sửa đổi hợp đồng.
Sửa đổi hợp đồng là việc các bên đã tham gia giao kết hợp đồng bằng ý chí
tự nguyện của mình thỏa thuận với nhau để phủ nhận (làm thay đổi) một số điều
khoản trong nội dung của hợp đồng đã giao kết.
Sau khi sửa đổi các bên thực hiện hợp đồng cũ những phần không sửa đổi;
đồng thời cùng nhau giải quyết hậu quả khác của việc sửa đổi hợp đồng.
Hình thức ghi nhận việc sửa đổi hợp đồng phải phù hợp với hình thức của
hợp đồng đã giao kết đối với những “hợp đồng được thành lập bằng văn bản, được
công chứng, chứng thực, đăng ký hoặc cho phép, thì việc sửa đổi hợp đồng cũng
phải tuân theo hình thức đó”. Còn các hình thức hợp đồng khác do các bên thỏa
thuận khi sửa đổi.
 Chấm dứt hợp đồng.
- Khi hợp đồng đã hoàn thành.
Khi các bên tham gia hợp đồng đã thực hiện toàn bộ nội dung của hợp đồng
và do vậy, mỗi bên đều đáp ứng được quyền và nghĩa vụ của mình thì hợp đồng coi
như đã hoàn thành.
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
10
Báo cáo thực tập chuyên ngành
- hợp đồng được chấm dứt theo thỏa thuận của các bên.
Trong những trường hợp có nội dung nào đó không có khả năng thực hiện
hợp đồng hoặc nếu hợp đồng được thực hiện sẽ gây tổn thất lớn về vật chất cho một
hoặc cả hai bên, thì các bên có thể thỏa thuận chấm rứt hợp đồng. hợp đồng đã giao
kết coi là chấm rứt khi các bên đạt được sự thỏa thuận nói trên.
- hợp đồng sẽ chấm dứt khi chủ thể giao kết hợp đồng không còn mà hợp
đồng phải do chính chủ thể đó thực hiện.
Phải thấy rằng không phải trong mọi trường hợp khi chủ thể của hợp đồng
không tồn tại thì hợp đồng đều được coi là chấm dứt. Theo căn cứ trên thì chỉ
những hợp đồng nào mà do tính chất của nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng các bên
thỏa thuận là người có nghĩa vụ phải trực tiếp thực hiện hoặc chỉ người có quyền
mới được hưởng lợi ích phát sinh từ hợp đồng thì khi chủ thể của hợp đồng không
tồn tại thì hợp đồng đó chấm dứt.
- Hợp đồng chấm dứt khi một bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng.
Hợp đồng có thể chấm dứt theo các căn cứ quy định tài Điều 426 BLDS.
Khi có một bên đơn phương vi phạm hợp đồng, thì bên kia có quyền đơn phương
đình chỉ hợp đồng. Khi đơn phương đình chỉ hợp đồng thì phần hợp đồng chưa thực
hiện sẽ chấm dứt. Bên có nghĩa vụ không phải thực hiện nghĩa vụ của mình nhưng
các bên phải thanh toán phần hợp đồng đã thực hiện với nhau.
- Hợp đồng chấm dứt khi một bên hủy bỏ hợp đồng.
Để nâng cao tính kỷ luật trong thực hiện hợp đồng, pháp luật cho phép các
bên trong hợp đồng được thỏa thuận về việc một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng nếu
bên kia vi phạm hợp đồng. Vì vậy, trong những trường hợp đó thì bên bị vi phạm
hợp đồng có quyền đơn phương hủy hợp đồng và yêu cầu bên vi phạm phải bồi
thường thiệt hại. Khi một bên hủy bỏ hợp đồng thì hợp đồng không có hiệu lực từ
thời điểm giao kết, các bên phải hoàn trả cho nhau những tài sản đã nhânh, nếu
không hoàn trả được bằng hiện vật sẽ phải hoàn trả bằng tiền.
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
11
Báo cáo thực tập chuyên ngành
- Hợp đồng không thể thực hiện do đối tượng của hợp đồng không còn và
các bên có thể thỏa thuận đối tượng hợp đồng khác hoặc bồi thường thiệt hại.
Trong trường hơp đối tượng của hợp đồng là một vật đặc định hoặc đơn
chiếc mà do bị mất hoặc tiêu hủy hay vì một lý do nào khác nên vật đó không còn
thì hợp đồng đó đương nhiên được chấm dứt vào thời điểm đối tượng của hợp đồng
không còn. Tuy nhiên, các bên có thể thỏa thuận vẫn duy trì hợp đồng đó bằng cách
thay đối tượng thực hiện hợp đồng không còn bằng một đối tượng khác.
1.1.2.4. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Chế định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng nhằm mục đích ngăn ngừa và
hạn chế vi phạm hợp đồng đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm của các chủ thể
trong thực hiện hợp đồng. Chế định trách nhiệm hợp đồng chủ trương áp dụng các
biện pháp chế tài đối với hành vi vi phạm hợp đồng dựa trên những căn cứ: có hành
vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra, có mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế, có lỗi của bên vi phạm và có các
loại trách nhiệm pháp lý sau:
Buộc thực hiện đúng hợp đồng: là hình thức chế tài, theo đó bên vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng phải tiến tục thực hiện theo yêu cầu của bên bị vi phạm. Hình
thức này đặt ra khi có sự vi phạm về các điều khoản của nội dung của hợp đồng
được thực hiện không đúng như: số lượng, chất lượng hay các yêu cầu kỹ thuật nào
đó để thực hiện hợp đồng…
Phạt hợp đồng: là hình thức chế tài của hợp đồng, theo đó bên vi phạm hợp
đồng phải trả cho bên bị vi phạm một khoản tiền nhất định do pháp luật quy định
hoặc do các bên thỏa thuận trên cơ sở pháp luật. Chế tài phạt vi phạm hợp đồng có
hai căn cứ là: (i) có hành vi vi phạm hợp đồng và (ii) có lỗi của bên vi phạm hợp
đồng.
Bồi thường thiệt hại: bồi thường thiệt hại là biện pháp nhằm khôi phục, bù
đắp những lợi ích vật chất bị mất của bên bị vi phạm hợp đồng. Do đó, bồi thường
thiệt hại chỉ áp dụng khi có thiệt hại xảy ra dựa trên các căn cứ: có hành vi vi phạm
hợp đồng; có thiệt hại thực tế; hành vi vi phạm hợp đồng là hành vi trực tiếp gây
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
12
Báo cáo thực tập chuyên ngành
thiệt hại; có lỗi của bên vi phạm (không thuộc các trường hợp miễn trách nhiệm do
pháp luật quy định). Khi áp dụng hình thức bồi thường thiệt hại cần lưu ý mối quan
hệ giữa phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại. Các bên có thể thỏa thuận về việc vi
phạm chỉ phải nội tiền phạt hợp đồng mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc cả
hai hình thức này.
1.1.2.5. Xử lý tranh chấp hợp đồng.
Trong phạm vi nghiên cứu của mình em chỉ xem xét những tranh chấp phát
sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại. Tức là giữa các tổ chức, các cá nhân
có đăng ký kinh doanh và có mục đích sinh lợi.
Tranh chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh là những thuật ngữ quen
thuộc trong đời sống kinh tê xã hội ở các nước trên thế giới. Khái niệm này mới
được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong mấy năm gần đây cùng với sự
nhường bước của khái niệm tranh chấp kinh tế.
Điều 29 Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự 2004 cũng đã liệt kê các tranh chấp về
kinh doanh, thương mại thuộc thẩm giải quyết của tòa án gồm có:
- Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân,
tổ chức kinh doanh với nhau và đều có lợi nhuận, bao gồm: mua hàng hóa;
cung ứng dịch vụ;phân phối; đại diện; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; vận
chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường sắt và đường bộ, đường thủy nội
địa; đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác; đầu
tư tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác;
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyênt giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau đều có mục đích lợi nhuận;
- Tranh chấp giữa công ty và thành viên của công ty, giữa các thành viên của
công ty với nhau liên quan đến thành lập, hoạt động, giải thể, sát nhập, hợp
nhất, chia tách, chuyển đổi hình thức của công ty;
- Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Phương thức giải quyết các tranh chấp này trên thế giới cũng như ở Việt Nam, tồn
tại bốn phương thức giải quyết sau:
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
13
Báo cáo thực tập chuyên ngành
• Thương lượng;
• Hòa giải;
• Tổ chức trọng tài;
• Tòa án.
Thương lượng, hòa giải và trọng tài là các phương thức giải quyết tranh chấp
không mang ý chí quyền lực nhà nước (không nhân danh quyền lực nhà nước như
phán quyết của tòa án) mà chủ yếu được giải quyết trên nền tảng ý chí tự định đoạt
của các bên tranh chấp hoặc phán quyết của bên thứ ba độc lập (được các bên lựa
chọn) theo thủ tục mềm dẻo, linh hoạt.
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên
tranh chấp cùng bàn bạc, tự dàn xếp, tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ
tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bên thứ ba nào.
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba
làm trung gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải
pháp nhằm loại trừ các tranh chấp đã phát sinh.
Giải quyết tranh chấp theo thủ tục trọng tài thì các bên phải có sự thỏa thuận
về việc đưa tranh chấp ra xét xử bằng trọng tài. Thỏa thuận đó là một điều khoản
riêng biệt được lập ra khi có phát sinh tranh chấp. Các quyết định và phán quyết của
trọng tài có thể được tòa án công nhận và cho thi hành thông qua một thủ tục tư
pháp. Có bốn nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài:
Thứ nhất là, tranh chấp bằng trọng tài, nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh
chấp, các bên có thỏa thuận trọng tài. Đây là điều kiện tiên quyết của việc giải quyết
tranh chấp, là việc khác nhau cơ bản giữa việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài với
việc giải quyết tranh chấp tại tòa án.
Thứ hai là, nguyên tắc bảo đảm quyền lựa chọn bằng hình thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài. Các bên tranh chấp có quyền lựa chọn trung tâm trọng tài
hoặc hội đồng trọng tài do các bên thành lập để giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, nguyên tắc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp. theo
quy định của pháp lệnh trọng tài thương mại, đối với các vụ tranh chấp giữa các bên
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét