LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển trong các công ty giao nhận tại thành phố hồ chí minh.": http://123doc.vn/document/1044724-thuc-trang-va-mot-so-giai-phap-nang-cao-hieu-qua-hoat-dong-giao-nhan-hang-hoa-xuat-nhap-khau-bang-duong-bien-trong-cac-cong-ty-giao-nhan-tai-thanh-pho.htm
của khách hàng. Một số yêu cầu của dịch vụ này bao gồm:
Giao nhận hàng hóa phải nhanh gọn.
Nhanh gọn thể hiện ở thời gian hàng đi từ nơi gửi đến nơi nhận, thời gian bốc
xếp, kiểm đếm giao nhận. Giảm thời gian giao nhận, góp phần đưa ngay hàng hóa
vào đáp ứng nhu cầu của khách hàng, muốn vậy người làm giao nhận phải nắm chắc
quy trình kỹ thuật, chủng loại hàng hóa, lịch tàu và bố trí hợp lý phương tiện vận
chuyển.
Giao nhận chính xác an toàn.
Đây là yêu cầu quan trọng để đảm bảo quyền lợi của chủ hàng và người vận
chuyển. Chính xác là yếu tố chủ yếu quyết định chất lượng và mức độ hoàn thành
công việc bao gồm chính xác về số lượng, chất lượng, hiện trạng thực tế, chính xác
về chủ hàng, nhãn hiệu. Giao nhận chính xác an toàn sẽ hạn chế đến mức thấp nhất
sự thiếu hụt, nhầm lẫn, tổn thất về hàng hóa.
Bảo đảm chi phí thấp nhất.
Giảm chi phí giao nhận là phương tiện cạnh tranh hiệu quả giữa các đơn vị
giao nhận. Muốn vậy phải đầu tư thích đáng cơ sở vật chất, xây dựng và hoàn chỉnh
các định mức, các tiêu chuẩn hao phí, đào tạo đội ngũ cán bộ nghiệp vụ.
1.1.4. Vai trò của dịch vụ giao nhận vận tải.
Vai trò quan trọng của giao nhận ngày càng được thể hiện rõ trong xu thế toàn
cầu hóa như hiện nay. Thông qua:
Trang 5
- Giao nhận tạo điều kiện cho hàng hóa lưu thông nhanh chóng, an toàn và tiết
kiệm mà không cần có sự tham gia của người gửi cũng như người nhận tác nghiệp.
- Giao nhận giúp cho người chuyên chở đẩy nhanh tốc độ quay vòng của
phương tiện vận tải tận dụng tối đa và hiệu quả sử dụng của các phương tiện vận tải
cũng như các phương tiện hỗ trợ khác.
- Giao nhận giúp giảm giá thành các hàng hóa xuất nhập khẩu do giúp các nhà
xuất nhập khẩu giảm bớt chi phí như: chi phí đi lại, chi phí đào tạo nhân công, chi
phí cơ hội
1.2. Người giao nhận.
1.2.1. Khái niệm.
Theo Quy tắc mẫu của FIATA: Người giao nhận là người lo toan để hàng hóa
được chuyên chở theo hợp đồng ủy thác và hành động vì lợi ích của người ủy thác
mà bản thân anh ta không phải là người chuyên chở. Người giao nhận cũng đảm
nhận thực hiện mọi công việc liên quan đến hợp đồng giao nhận như: bảo quản, lưu
kho, trung chuyển, làm thủ tục hải quan, kiểm hóa
Theo Luật Thương mại Việt Nam: Người giao nhận là thương nhân có giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh về dịch vụ giao nhận hàng hóa. Người giao nhận có
thể là:
- Chủ hàng: khi chủ hàng tự đứng ra đảm nhận công việc giao nhận hàng hóa
của mình.
- Chủ tàu: Khi chủ tàu thay mặt người chủ hàng thực hiện dịch vụ giao nhận.
- Đại lý hàng hóa, công ty xếp dỡ hay kho hàng, người giao nhận chuyên
nghiệp hay bất kỳ người nào khác có đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng
hóa.
Vậy, Người giao nhận là người:
- Hoạt động theo hợp đồng ủy thác với chủ hàng, bảo vệ lợi ích của chủ hàng.
Trang 6
- Lo việc vận tải nhưng chưa hẳn là người vận tải. Có thể là người có hoặc
không có phương tiện vận tải, có thể sử dụng, thuê mướn người vận tải hoặc trực
tiếp tham gia vận tải. Nhưng ký hợp đồng ủy thác giao nhận với chủ hàng là người
giao nhận chứ không phải là người vận tải.
- Cùng với việc tổ chức vận tải, người giao nhận còn làm nhiều việc khác trong
phạm vi ủy thác của chủ hàng để đưa hàng từ nơi này đến nơi khác theo những điều
khoản đã cam kết.
- Người giao nhận có thể làm các dịch vụ một cách trực tiếp hoặc thông qua
đại lý và thuê dịch vụ của người thứ ba khác.
- Người làm dịch vụ giao nhận khi nhận việc vận chuyển hàng hoá thì phải
tuân theo quy định của pháp luật chuyên ngành về vận tải.
Trong xu thế thương mại toàn cầu hoá cùng với sự phát triển nhiều hình thức
vận tải mới trong những thập niên qua. Ngày nay, người làm dịch vụ giao nhận hàng
hoá giữ vai trò quan trọng trong vận tải và buôn bán quốc tế. Những dịch vụ người
giao nhận thực hiện không chỉ dừng lại ở các công việc cơ bản truyền thống như đặt
chỗ đóng hàng, nơi dùng để kiểm tra hàng hoá, giao nhận hàng hoá mà còn thực
hiện những dịch vụ chuyên nghiệp hơn như tư vấn chọn tuyến đường vận chuyển,
chọn tàu vận tải, đóng gói bao bì hàng hoá, …
1.2.2. Phạm vi các dịch vụ của người giao nhận.
Dịch vụ thay mặt người gửi hàng (Người XK).
Người giao nhận với những thoả thuận cụ thể sẽ giúp khách hàng của mình
(người XK) những công việc sau:
- Lựa chọn tuyến đường, phương thức vận tải và người vận tải thích hợp.
- Lưu khoang với hãng tàu đã chọn lựa.
- Nhận hàng hoá và cấp các chứng từ liên quan.
Trang 7
- Nghiên cứu các điều kiện của thư tín dụng (L/C) và các văn bản luật pháp của
chính phủ liên quan đến vận chuyển hàng hoá của nước XK, nước NK, kể cả các
quốc gia chuyển tải hàng hoá, cũng như chuẩn bị các chứng từ cần thiết.
- Ðóng gói hàng hoá (trừ khi hàng hoá đã đóng gói trước khi giao cho người
giao nhận) có tính đến tuyến đường, phương thức vận tải, bản chất hàng hóa và các
luật lệ áp dụng nếu có nước XK, các nước chuyển tải và các nước đến.
- Tư vấn cho người xuất khẩu về tầm quan trọng của bảo hiểm hàng hoá.
- Chuẩn bị kho bảo quản hàng hoá, cân đo hàng hoá (nếu cần).
- Vận chuyển hàng hoá đến cảng, sắp xếp việc khai hải quan, thực hiện các thủ
tục về lệ phí ở khu vực giám sát hải quan, cảng vụ, và giao hàng hoá cho người vận
tải.
- Nhận B/L từ người vận tải, sau đó giao cho người xuất khẩu.
- Theo dõi quá trình vận chuyển hàng hoá đến cảng đích bằng cách liện hệ với
người vận tải hoặc đại lý của người giao nhận ở nước ngoài.
- Ghi chú về những mất mát, tổn thất đối với hàng hoá (nếu có).
- Giúp người xuất khẩu trong việc khiếu nại đối với những hư hỏng, mất mát
hay tổn thất của hàng hoá.
Dịch vụ thay mặt người nhận hàng (Người NK).
Người giao nhận với những thoả thuận cụ thể sẽ giúp khách hàng của mình
(người NK) những công việc sau:
- Theo dõi quá trình vận chuyển hàng hoá trong trường hợp người NK chịu
trách nhiệm về chi phí vận chuyển.
- Nhận và kiểm tra tất cả các chứng từ liên quan đến quá trình vận chuyển hàng
hoá.
- Nhận hàng từ người vận tải và nếu cần, trả cước phí.
Trang 8
- Chuẩn bị các chứng từ, nộp các lệ phí giám sát hải quan, các lệ phí liên quan.
- Chuẩn bị kho hàng chuyển tải (nếu cần thiết).
- Giao hàng hoá đã làm thủ tục hải quan cho người NK.
- Giúp người NK trong việc khiếu nại với các tổn thất, mất mát của hàng hoá.
- Giúp người NK trong việc lưu kho và phân phối hàng nếu cần.
Các dịch vụ khác.
Ngoài các dịch vụ kể trên, người giao nhận còn cung cấp các dịch vụ khác theo
yêu cầu của khách hàng như dịch vụ gom hàng, tư vấn cho khách hàng về nhu cầu
tiêu dùng, các thị trường mới, tình huống cạnh tranh, chiến lược XK, các điều kiện
giao hàng phù hợp, các điều khoản thương mại thích hợp cần phải có trong hợp
đồng ngoại thương …
1.3. Địa vị pháp lý về người giao nhận.
Do chưa có luật lệ quốc tế quy định về địa vi pháp lý của người giao nhận nên
ở các nước khác nhau thì địa vị pháp lý của người giao nhận có khác nhau.
Theo các nước sử dụng luật Common law.
Người giao nhận có thể lấy danh nghĩa của người ủy thác (người gửi hàng hay
người nhận hàng) thì địa vị người giao nhận dựa trên khái niệm về đại lý. Hay có
thể đảm nhận vai trò của người ủy thác (nhân danh và hành động bằng lợi ích của
chính mình). Tự mình chịu trách nhiệm trong quyền hạn của chính mình.
Hoạt động của người giao nhận khi đó phụ thuộc vào những quy tắc truyền
thống về đại lý, như việc phải mẫn cán khi thực hiện nhiệm vụ của mình, phải trung
thực với người ủy thác, tuân theo những chỉ dẫn hợp lý của người ủy thác, mặt khác
được hưởng những quyền bảo vệ và giới hạn trách nhiệm phù hợp với vai trò của
một đại lý.
Trang 9
Trong trường hợp người giao nhận đảm nhận vai trò của người ủy thác (hành
động cho lợi ích của mình), tự mình ký kết hợp đồng với người chuyên chở và các
đại lý, thì người giao nhận sẽ không được hưởng những quyền bảo vệ và giới hạn
trách nhiệm nói trên, mà phải chịu trách nhiệm cho cả quá trình giao nhận hàng hóa
kể cả khi hàng nằm trong tay những người chuyên chở và đại lý sử dụng.
Theo các nước sử dụng luật Civil law.
Có quy định khác nhau nhưng thông thường người giao nhận lấy danh nghĩa
của mình giao dịch cho công việc của người ủy thác họ vừa là người ủy thác và vừa
là đại lý. Đối với người ủy thác (người nhận hàng hay người gửi hàng) họ được coi
là đại lý còn đối với người chuyên chở họ lại là người ủy thác. Tuy nhiên thể chế
mỗi nước sẽ có những điểm khác biệt.
Liên đoàn các hiệp hội giao nhận quốc tế (FIATA) đã soạn thảo Điều kiện kinh
doanh tiêu chuẩn để các nước tham khảo xây dựng các điều kiện cho ngành giao
nhận của nước mình, giải thích rõ ràng các nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của
người giao nhận.
Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn quy định người giao nhận phải:
- Tiến hành chăm sóc chu đáo hàng hóa được ủy thác.
- Điều hành và lo liệu vận tải hàng hóa được ủy thác theo chỉ dẫn của khách
hàng về những vấn đề có liên quan đến hàng hóa đó.
- Người giao nhận không nhận đảm bảo hàng đến vào một ngày nhất định, có
quyền cầm giữ hàng khi khách hàng của mình không thanh toán các khoản phí.
- Chỉ chịu trách nhiệm về lỗi lầm của bản thân mình và người làm công cho
mình, không chịu trách nhiệm về sai sót của bên thứ ba, miễn là đã tỏ ra cần mẫn
thích đáng trong việc lựa chọn bên thứ ba đó.
Những điều kiện này thường được hình thành phù hợp với tập quán thương
mại hay thể chế pháp lý hiện hành ở từng nước.
Trang 10
Ở những nước chưa có điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn, hợp đồng giữa người
giao nhận và khách hàng sẽ quy định quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm mỗi bên.
1.4. Quyền và nghĩa vụ của người giao nhận.
1.4.1. Quyền của người giao nhận.
- Ðược hưởng tiền công và các khoản thu nhập hợp lý khác.
- Người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá có quyền cầm giữ số hàng hoá nhất
định và các chứng từ có liên quan đến hàng hoá để đòi tiền nợ đã đến hạn của khách
hàng và thông báo ngay bằng văn bản cho khách hàng.
- Sau 45 ngày kể từ ngày cầm giữ, nếu khách hàng không trả tiền nợ thì người
làm dịch vụ giao nhận hàng hoá có quyền định đoạt hàng hoá hoặc chứng từ đó theo
quy định pháp luật, mọi chi phí cầm giữ và định đoạt hàng hoá do khách hàng chịu.
1.4.2. Nghĩa vụ của người giao nhận.
- Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình theo hợp đồng.
- Quá trình thực hiện hợp đồng, nếu có lý do chính đáng vì lợi ích của khách
hàng thì có thể thực hiện khác với chỉ dẫn của khách hàng nhưng phải thông báo
ngay cho khách hàng.
- Sau khi ký kết hợp đồng, nếu xảy ra trường hợp có thể dẫn đến việc không
thực hiện được toàn bộ hoặc một phần những chỉ dẫn của khách hàng thì phải thông
báo ngay cho khách hàng biết để xin chỉ dẫn thêm.
- Trong trường hợp hợp đồng không có thoả thuận về thời hạn cụ thể thực hiện
nghĩa vụ với khách hàng thì phải thực hiện các nghĩa vụ của mình trong thời hạn
hợp lý.
1.4.3. Giới hạn trách nhiệm.
- Trách nhiệm của người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá trong mọi trường hợp
không vượt quá giá trị hàng hoá, trừ khi các bên có thoả thuận khác trong hợp đồng.
Trang 11
- Người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá không được miễn trách nhiệm nếu
không chứng minh được việc mất mát, hư hỏng hoặc chậm giao hàng không phải do
lỗi của mình gây ra.
- Người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá không phải chịu trách nhiệm, khi họ
không nhận được thông báo về khiếu nại trong thời hạn 14 ngày, kể từ ngày giao
hàng, không tính ngày chủ nhật, ngày lễ; không nhận được thông báo bằng văn bản
về việc bị kiện tại Toà án hoặc Trọng tài trong 9 tháng, kể từ ngày giao hàng.
1.4.4. Các trường hợp miễn trách nhiệm.
- Ðã làm đúng theo những chỉ dẫn của khách hàng hoặc của người được khách
hàng uỷ quyền.
- Do lỗi của khách hàng hoặc của người được khách hàng uỷ quyền.
- Khách hàng đóng gói và ghi ký mã hiệu không phù hợp.
- Do khách hàng hoặc người được khách hàng uỷ quyền thực hiện việc xếp, dỡ
hàng hoá.
- Do khuyết tật của hàng hoá.
- Do có đình công hoặc các trường hợp khác bất khả kháng.
- Người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá cũng không phải chịu trách nhiệm về
việc mất khoản lợi đáng lẽ khách hàng được hưởng về sự chậm chễ hoặc giao hàng
sai địa chỉ mà không phải do lỗi của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác.
1.5. Mối quan hệ của người giao nhận với các bên liên quan.
1.5.1. Các tổ chức của chính phủ.
- Các đơn vị hải quan để khai hải quan.
- Các đơn vị quản lý cửa khẩu để làm thủ tục thông qua cảng.
Trang 12
- Các ngân hàng.
- Các cơ quan kiểm dịch động-thực vật.
- Các cơ quan giám định hàng xuất nhập khẩu.
- Các đơn vị cấp C/O.
- Phòng quản lý xuất nhập khẩu khu vực.
1.5.2. Các tổ chức tư nhân.
- Người vận tải và các đại lý vận tải.
- Người quản lý kho hàng.
- Người bảo hiểm.
- Các doanh nghiệp đóng gói hàng hoá.
- Các ngân hàng thương mại.
1.6. Vai trò của người giao nhận trong thương mại quốc tế.
Ngày nay cùng với sự mở rộng trong thương mại quốc tế, các phương thức vận
tải ngày càng phát triển: vận tải container, vận tải đa phương thức, người giao nhận
không chỉ làm đại lý, người nhận ủy thác mà còn cung cấp dịch vụ vận tải và đóng
vai trò như một vai chính – người chuyên chở. Người giao nhận đã đóng vai trò:
Môi giới hải quan.
Ban đầu, người giao nhận chỉ hoạt động trong nước, phụ trách làm thủ tục hải
quan đối với hàng nhập khẩu và dành chỗ chở hàng trong vận tải quốc tế hoặc lưu
cước đối với các hãng tàu theo sự ủy thác của người XK hoặc người NK. Trên cơ sở
Nhà nước cho phép, người giao nhận thay mặt người XK hoặc người NK để khai
báo làm thủ tục hải quan như một môi giới hải quan.
Trang 13
Đại lý.
Người giao nhận đóng vai trò như một đại lý của người chuyên chở để thực
hiện các hoạt động khác nhau như: nhận hàng, giao hàng, lập chứng từ, làm thủ tục
hải quan, lưu kho trên cơ sở hợp đồng ủy thác.
Người gom hàng.
Người chuyên chở đóng vai trò là đại lý hoặc người chuyên chở. Đặc biệt là
không thể thiếu trong vận tải container nhằm thu gom những lô hàng lẻ thành hàng
nguyên để tận dụng sức chở của container và giảm cước phí vận tải.
Người chuyên chở.
Trong nhiều trường hợp người giao nhận đóng vai trò là người chuyên chở, nghĩa là
người giao nhận trực tiếp ký hợp đồng vận tải và chịu trách nhiệm chuyên chở hàng
với chủ hàng. Người giao nhận đóng vai trò là người thầu chuyên chở nếu không
trực tiếp chuyên chở hoặc là người chuyên chở thực tế.
Người kinh doanh vận tải đa phương thức.
Trong trường hợp người giao nhận cung cấp dịch vụ vận tải đi suốt hoặc còn
gọi là vận tải “từ cửa đến cừa” (Door to Door), thì người giao nhận đã đóng vai trò
là người kinh doanh vận tải đa phương thức. Họ chính là người chuyên chở và phải
chịu trách nhiệm đối với hàng hóa trong suốt quá trình vận tải.
1.7. Quy trình giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển.
1.7.1. Quy trình giao nhận hàng xuất.
Đối với hàng hóa không phải lưu kho bãi tại cảng.
Hàng không phải lưu kho bãi tại cảng là hàng XK do chủ hàng ngoại thương
vận chuyển từ các nơi trong nước để XK, có thể bảo quản tại các kho riêng của
mình chứ không qua các kho của cảng. Từ kho riêng, các chủ hàng hoặc người được
chủ hàng ủy thác có thể giao trực tiếp cho tàu.
Trang 14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét