LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối nước ta trong thời gian tới": http://123doc.vn/document/1052211-giai-phap-nham-hoan-thien-quan-he-phan-phoi-nuoc-ta-trong-thoi-gian-toi.htm
và thực hành, những năng khiếu của họ một cách toàn diện nhất. Quả thật nh vậy
bởi vì phân phối luôn luôn đợc điều tiết, đợc quyết định bởi lợi ích xã hội mà đầu
tiên là lợi ích kinh tế. Thông qua quá trình phân phối mà các giai cấp sẽ thoả mãn
các nhu cầu về lợi ích khác nhau.một cách hợp lý nhất. Khi xảy ra mâu thuẫn về lợi
ích tất yếu sẽ dẫn đến đấu tranh và phân phối hợp lý hơn. Do vậy vai trò thứ hai của
phân phối là:
- Phân phối góp phần thực hiện công bằng kinh tế và công bằng xã hội.
Một quan hệ phân phối sẽ tác động, sẽ tạo điều kiện để sản xuất ngày càng
phát triển thuận lợi hơn khi quan hệ phân phối đó đem lại lợi ích cho tất cả các
thành viên, thoả mãn tốt nhất mọi nhu cầu về lợi ích cho các giai cấp. Khi đó mọi
thành viên, mọi giai cấp của xã hội đều có thể phát triển duy trì và phát huy những
tiềm năng, tận dụng những tiềm năng của họ. Từ đấy sản xuất lại càng phát triển,
xã hội đời sống, các điều kiện vật chất và tinh thần đợc nâng cao. Chính vì thế, vai
trò thứ ba của phân phối là:
- Thúc đẩy hoàn thiện chế độ sở hữu.
Thông qua quá trình phân phối thu nhập các chủ thể yếu tố sản suất có đợc thu
nhập để mua hàng tiêu dùng và dịch vụ trên thị trờng sản phẩm, dịch vụ, qui mô
phân phối quyết đinh qui mô tiêu dùng. Vì vậy, cuối cùng phân phối có vai trò:
- Thực hiện quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân.
Từ những vai trò trên ta càng thấy dợc tầm quan trọng của việc nghiên cứu quan hệ
phân phối ở nớc ta hiện nay là hết sức cần thiết.
1.1.3. Cơ sở kinh tế của quan hệ phân phối.
Khi chúng ta nói về cơ sở kinh tế của sự phân phối chúng ta nghĩ ngay đến việc
phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cá nhân mỗi thành viên trong xã hội. Nhng nh
chúng ta đã biết phân phối bao gồm cả phân phối cho tiêu dùng sản xuất ( Sự phân
phối t liệu sản xuất, sức lao động của xã hội vào các nghành sản xuất ) là tiền đề, là
điều kiện và là một yếu tố sản xuất nó quyết quy mô, cơ cấu và tốc độ phát triển
của xã hội. Phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cá nhân mỗi thành viên trong xã hội
là kết quả của sản xuất và do sản xuất quyết định.
Để quá trình tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng đợc diễn ra không ngừng, tổng
sản phẩm sản xuất ra không thể phân phối ngay cho mọi ngời. Do đó không thể
5
chia đều sản phẩm sản xuất ra cho mọi ngời, điều này là phi thực tế và không thực
hiện đợc trong xã hội hiện đại.
Trong một xã hội phát triển với một nền sản xuất lớn thì một bộ phận của tổng
sản phẩm xã hội phải dùng để bù đắp những khoản chi phí, dự phòng, tích luỹ, và
phần còn lại mới để phân phối tiêu dùng. Các phần đợc tính ra bao gồm những
phần sau đây:
- Phần bù đắp những t liệu sản xuất đã hao phí.
- Phần để mở rộng sản xuất.
- Phần để lập quỹ dự trữ đề phòng khi tai hoạ bất ngờ.
Phần trích này là một điều tất yếu về kinh tế bởi vì trong một xã hội đang ngày
càng phát triển thì kéo theo nó là một nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Do đo để
đáp ứng đợc nhu cầu ngày càng tăng ấy thì tất yếu phải khôi phục và mở rộng sản
xuất.
Phần còn lại của tổng sản phẩm xã hội thì chúng ta sử dụng cho tiêu dùng. Tuy
nhiên trớc khi tiến hành phân phối trực tiếp cho tiêu dùng cá nhân thì còn phải trích
ra một phần để chi cho:
- Chi phí về quản lí hành chính và tổ chức, bảo vệ tổ quốc.
- Mở rộng các s nghiệp phúc lợi công cộng và cứu tế xã hội.
Và cuối cùng phần vật phẩm tiêu dùng còn lại mới đợc trực tiếp phân phối cho
tiêu dùng cá nhân của những ngời làm việc trong nền sản xuất xã hội phù hợp với
số lợng và chất lợng lao động cũng nh số lợng vốn và tài sản mà họ đã đóng góp
vào quá trình sản xuất.
Vì vậy chúng ta có thể đi đến kết luận rằng tổng sản phẩm xã hội vừa đợc phân
phối để tiêu dùng cho sản xuất và vừa đợc phân phối để tiêu dùng cho cá nhân.
1.2. Tính tất yếu khách quan tồn tại nhiều nghuyên tắc phân
phối ở nớc ta hiện nay.
1.2.1. Cơ sở lý luận của quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trờng theo
định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta hiện nay.
Đất nớc ta chủ trơng đi theo con đờng tiến lên xã hội chủ nghĩa mà Đảng và
Bác Hồ đã chọn. Tuy nhiên, để xây dựng chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của
6
Mác, để đạt tới chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài, gian khổ. Chủ nghĩa xã
hội khoa học, tự do, dân chủ và nhân đạo mà nhân dân ta và loài ngời tiến bộ đang
vơn tới là hợp với xu thế phát triển khách quan, hợp với quy luật của lịch sử. Và để
xây dựng đợc một xã hội mới xã hội chủ nghĩa chúng ta cần quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, thời kì chúng ta phải thực hiện
hàng loạt những nhiệm vụ kinh tế khó khăn nhằm tạo tiền đề, nền móng cho chủ
nghĩa xã hội. Hơn nữa nớc ta lại quá độ đi lên từ điểm rất thấp, nền kinh tế chủ yếu
là sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp còn ở tình trạng phổ biến của tái sản xuất giản đơn,
lực lợng sản xuất lạc hậu, năng suất lao động thấp, quan hệ sản xuất yếu kém gây
khó khăn, cản trở. Do vậy nó còn đòi hỏi chúng ta không phải chỉ nỗ lực rất lớn mà
còn cần phải có đờng lối, chính sách đúng đắn ở từng giai đoạn. Thời kì này phân
phối và lu thông là một lĩnh vực hoạt động kinh tế nhạy cảm, phức tạp. Trong điều
kiện nền kinh tế nhiều thành phần lợi ích của những cơ sở sản xuất kinh doanh,
của những ngời sản xuất, lợi ích của các giai cấp, tầng lớp thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau còn có những khác biệt, thậm chí mâu thuẫn với nhau, trong xã
hội còn có những tàn d, những suy nghĩ, tính toán cá nhân. Việc quản lí nền kinh tế
càng trở nên khó khăn đòi hởi Nhà nớc phải có chính sách, biện pháp phân phối
đúng đắn để góp phần ổn định và phát triển kinh tế xã hội, đồng thời, phải có
những biện pháp thích đáng về kinh tế, giáo dục và pháp luật nhằm đấu tranh loại
trừ dần những hiện tựơng tiêu cự trong lĩnh vực phân phối, thực hiên từng bớc bình
đẳng công bằng xã hội.
Để phát triển nền sản xuất xã hội việc sử dụng các quan hệ phân phối có vai
trò hết sức quan trọng trong các quan hệ kinh tế. Phân phối là kết quả của sản xuất
và trao đổi, do sản xuất quyết định nhng nó cũng tác động lại mạnh mẽ sản xuất và
trao đổi. Một quan hệ phân phối hợp lí và phù hợp sẽ tạo ra động lực to lớn để phát
triển kinh tế, tạo ra sự công bằng hơn cho xã hội đặc biệt với một nớc có trình độ
sản xuất còn thấp, sản xuất không đáp ứng kịp nhu cầu và nhiều mặt phát triển cha
cân đối nh nớc ta hiện nay. Ngợc lại, phân phối không đúng đắn, không đảm bảo
lợi ích kinh tế, không công bằng, chênh lệch quá lớn không những không thúc
đẩy sản xuất phát triển, ổn định tình hình kinh tế xã hội và cải thiện đời sống
nhân dân mà còn tác động tiêu cực tới sản xuất, kìm hãm thậm chí phá hoại sản
xuất, ảnh hởng tới con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy phải nắm vững và giải
quyết tốt mối quan hệ giữa đẩy mạnh sản xuất và tiến hành phân phối, có chính
sách phân phối đúng đắn để tác động lại sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng
7
năng suất lao động, tạo tiền đề vật chất cho tái sản xuất mở rộng, tạo môi trừơng
chính trị xã hội, kinh tế lành mạnh, ổn định cho các doanh nghiệp, cá nhân hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Xuất phát từ yêu cầu của các quy luật kinh tế khach quan và từ đặc điểm kinh
tế xã hội của đất nớc, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nớc ta tất yếu
khách quan phải tồn tại nhiều nguyên tắc phân phối khác nhau. Đó là vì:
- Nền kinh tế nớc ta là nền kinh tế nhiều thành phần, có nhiều hình thức sở hữu
khác nhau:
Quan hệ sở hữu về t liệu sản xuất quyết định mối quan hệ giữa các tập đoàn xã
hội trong sản xuất cũng nh trong phân phối. Nền kinh tế nớc ta là nền kinh tế thị tr-
ờng định hớng xã hội chủ nghĩa gồm nhiều thành phần kinh tế dựa trên nhiều hình
thức sở hữu. Nhà nớc thừa nhận và đảm bảo bằng pháp luật không chỉ sở hữu toàn
dân, sở hữu Nhà nớc mà cả sở hữu t nhân về tiền vốn, của cải để dành và các tài
sản, thu nhập hợp pháp khác. Phù hợp với mỗi thành phấn kinh tế, mỗi hình thức sở
hữu là một hình thức phân phối thu nhập nhất định. Mặc dù các thành phần kinh tế
nớc ta không tồn tại biệt lập mà vừc đan xen vào nhau và hợp thành cơ cấu kinh tế
quốc dân thống nhất, nhng cha theể thực hiện phân phối thu nhập theo một hhình
thức mà phải thực hiện theo nhiều hình thức. Chỉ có nh vậy mới giải phóng đợc mọi
năng lực sản xuất, khai thác triệt để mọi tiềm năng kinh tế của đất nớc nhằm phát
triển mạnh mẽ kinh tế xã hội nớc ta.
- Trong nền kinh tế nớc ta còn tồn tại nhiều phơng thức kinh doanh khác nhau
Nền kinh tế nớc ta là nền kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Trong
nền kinh tế này có nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh thuộc nhiều thành phần kinh
tế tham gia. Mỗi thành phần kinh tế có phơng thức tổ chức sản xuất kinh doanh
khác nhau. Ngay trong mỗ thời kì, kể cả thành phần kinh tế nhà nớc cũng có phơng
thức kinh doanh khác nhau, do đó kết quả và thu nhập là khác nhau. Hơn nữa, trong
điều kiện của nền kinh tế thị trờng, các chủ thể sản xuất, kinh doanh tham gia vào
nền kinh tế đều có sự khác nhau về sở hữu của cải, tiền vốn, trình độ chuyên môn,
tay nghề, năng lực sở trờng, thậm chí khác nhau về may mắn do đó khác nhau về
thu nhập. Do vậy, không thể có một hình thức phân phối thu nhập thống nhất, trái
lại có nhiều hình thức khác nhau.
- Cơ chế thị trờng cũng đòi hỏi phải thực hiện nhiều hình thức phân phối.
8
Bởi vì trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trờng, sự điều phối, sắp xếp
hợp lí các yếu tố của nền sản xuất xã hội phải do cơ chế thị trờng thực hiện, do đó
các yếu tố của sản xuất tất nhiên phải đợc tham gia vào quá trình phân phối, nh
thông qua thị trờng mà tập chung vốn và điều phối vốn, vận dụng việc phát hành cổ
phiếu hoặc trái phiếu để lấy lời Điều dó cũng góp phần hình thành các nguyên
tắc phân phối theo hình thức khác nhau.
1.2.1.Tính tất yếu khách quan tồn tại nguyên tắc phân phối theo lao động.
Nguyên tắc phân phối theo lao động là một tất yếu khách quan trong điều kiện
nớc ta hiện nay đặc biệt trong thành phần kinh tế nhà nớc và kinh tế hợp tác. Đây là
các thành phần kinh tế bao gồm các đơn vị kinh tế dựa trên cơ sở sở hữu công cộng
về t liệu sản xuất ( kinh tế nhà nớc ) hoặc các hợp tác xã cổ phần mà phần góp vốn
của các thành viên bàng nhau (kinh tế tập thể). Các thành phần kinh tế này đều dựa
trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về t liệu sản xuất ở các trình độ khác nhau.
Ngời lao động làm chủ về t liệu sản xuất nên tất yếu cũng làm chủ về phân phối
cho cá nhân. Vì vậy phân phối phải vì lợi ích của ngời lao động.
Có nhiều cách phân phối vì lợi ích của ngời lao động: Phân phối theo nhu cầu,
phân phối bình quân và phân phối theo lao động. Trong thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội và ngay cả giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản cũng cha thể thực
hiện phân phối theo nhu cầu, hay phân phối bình quân mà chỉ có thể phân phối theo
lao động. Trong thời kì quá độ ở nớc ta kết cấu kinh tế còn nhiều thanh phần, chúng
ta cũng cha có điều kiện để thực hiện hình thức phân phối theo lao động trên quy
mô toàn xã hội mà chỉ có thể thực hiện trong một bộ phận nền kinh tế mà là các
đơn vị kinh tế thuộc thành phần kinh tế dựa trên cơ sở công hữu về t liệu sản xuất
mà thôi. Do đó hình thức phân phối theo lao động có thể coi là hình thức phân phối
chủ yếu ở nớc ta hiện nay.
* Tính tất yếu khách quan tồn tại nguyên tắc phân phối theo lạo động thể hiện ở
chỗ:
- Lực lợng sản xuất phát triển cha cao đến mức có đủ sản phẩm để phân phối theo
nhu cầu. Vì phân phối do sản xuất quyết định cho nên Quyền không bao giờ có
thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế độ
kinh tế đó quyết định và Làm tốt, làm nhiều: hởng nhiều; làm xấu, làm ít: hởng
ít, có khi phải bồi thờng lại cho nhà nớc .
9
- Sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động nh lao động trí óc, lao dộng chân
tay, lao động phức tạp, lao động giản đơn ở nớc ta hiện nay dẫn tới việc trong cùng
một đơn vị thời gian, những lao động khác nhau lại đa những kết quả ít nhiều, tốt
xấu klhác nhau. Do đó phải căn cứ vào lao động mỗi ngời đã cống hiến cho xã hội,
dựa vào kết quả lao động để phân phối. Mặt khác, trong xã hội nớc ta hiện nay hiện
vẫn còn những ngời muốn trút bỏ gánh nặng lao động cho ngời khác do đó
không thể phân phối bình quân vì nó có hại cho sự phát triển sản xuất. Trong tình
hình nh vậy phân phối theo lao động là phù hợp với xã hội kể trên.
- Cuối cùng lao động cha trở thành nhu cầu của cuộc sống mà vẫn còn là phơng
tiện kiếm sống. Hơn nữa còn những tàn d ý thức t tởng của xã hội cũ để lại nh: Coi
khinh lao động, ngại lao động chân tay, chây lời, làm ít muốn hởng nhiều. Trong
những điều kiện đó cha thể phân phối theo nhu cầu mà phải phân phối theo lao
động để khuyến khích mọi ngời lao động, vì lợi ích thiết thân mà cống hiến cho xã
hội, khắc phục những tàn d t tởng xấu đối với xã hội. Tóm lại phân phối theo lao
động là phù hợp với chế độ công hữu về t liệu sản xuất, phù hợp với trình độ phát
triển của lực lợng sản xuất, phù hợp với trạng thái sản xuất và trình độ phát triển
kinh tế của đất nớc. Chính vì vậy phân phối theo lao động có tác dụng thúc đẩy sản
xuất ngày càng phát triển vì nó là hình thức phân phối cơ bản và chủ yếu ở nớc ta
hiện nay.
1.2.3. Tính tất yếu khách quan tồn tại nguyên tắc phân phối theo vốn, tài sản
và những đóng góp khác.
Đất nớc ta đang trong thời kì quá độ với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nên tất
yéu có nhiều hình thức sở hữu về t liệu sản xuất và cũng xuất hiện nhiều hình thức
kinh doanh khác nhau.
Đặc điểm nổi bật nhất ở nớc ta trong thời kì này là chúng ta đi lên từ một nền
sản xuất nhỏ nên diễn ra tình trạnh thiếu vốn và phân tán vốn, quá trình tích tụ tập
trung vốn cha cao, một phần tơng đối vốn hiện nay vẫn nằm rải rác, phân tán trong
tay ngời lao động t hữu nhỏ, t sản nhỏ trong đó có cả dới dạng t liệu sản xuất, vàng
bạc, ngoại hối, tiền mặt Để có thể sử dụng nguồn vốn đó cho sản xuất xã hội
chúng ta không thể sử dụng các chính sách áp đặt nh chng thu, trng mua hay đóng
góp cổ phần bình quân vì tất cả các cách làm đó đều đi đến kết quả làm suy yếu lực
lợng sản xuất vốn có của xã hội. Từ sau quyết định hội nghị lần VI ban chấp hành
trung ơng ở nớc ta đã xuất hiện các biện pháp huy động vốn nh một số đơn vị kinh
tế quốc doanh và tập thể đã huy động vốn của dân c dới các hình thức vay vốn, hùn
vốn và góp cổ phần không hạn chế với mức lãi hợp lí Cách làm nh vậy đã có tác
10
dụng đa đợc vốn nhàn rỗi đi vào chu chuyển. Qua đó kinh tế quốc doanh và kinh tế
tập thể nắm quyền sử dụng một nguồn vốn to lớn hơn nhiều nguồn vốn tự có. Nh
vậy mặc dù sở hữu vốn là t nhân nhng việc dử dụng vốn đã mang tính xã hội.
*Tính tất yếu khách quan của phân phối theo vốn,tài sản và đóng góp khác thể
hiện ở chỗ:
- Bắt nguồn từ quyền sở hữu, ai có quyền sở hữu theì có qyuền chiếm đoạt một
phần giá trị do sản xuất. Do đó ngời có quyền sở hữu vốn và tài sản thì có quyền
chiếm đoạt một phần giá trị do nguồn vốn và tài sản đó tạo ra.
- Vốn và tài sản trong quá trình sản xuất cũng có công trong việc tạo ra lợi
nhuận do đó phải trích một phần lợi nhuận để phụ thêm vào vốn cũ nhằm mở rộng
sản xuất.
Qua đây ta có thể đa đến kết luận là trong diều kiện đất nớc ta hiện nay để phát
triển sản xuất, tiến lên chủ nghĩa xã hội là cần thiết phải áp dụng nguyên tắc phân
phối theo vốn, tài sản và đóng góp khác. Điều này rất phù hợp bởi vì tơng ứng với
mỗi thành phần kinh tế có một hình thức phân phối nhất định do đó các hình thức
phân phối rất đa dạng, rất khác nhau. Tuy nhiên nó vẫn đảm bảo không làm mất
tính định hớng xã hội chủ nghĩa bởi vì nguyên tắc phân phối theo lao động vẫn là
chủ đạo, các nguyên tắc phân phối khác nh phân phối theo vốn, tài sản và đóng góp
khác vẫn có thể tồn tại song miễn là nó phù hợp với tình trạng nền kinh tế và có tác
dụng thúc đẩy kinh tế phát triển, phù hợp với lợi ích ngời lao động và ngời lao động
chấp nhận nó.
Cùng với việc Đảng và Nhà nớc sửa đổi, bổ xung và công bố rộng rãi chính
sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế, tạo điều kiện pháp lí để cho các
thành phần kinh tế, t nhân cá thể và tất cả mọi thành viên xã hội đều yên tâm đầu t,
phát triển thì hơn bao giờ hết cần áp dụng nguyên tắc phân phối theo vốn, tài sản và
những đóng góp khác vào để kích thích các thành phần kinh tế này phát triển qua
đó đóng góp vào quá trình sản xuất xã hội dới hình thức lợi tức và lợi nhuận.
Cùng với nguyên tắc phân phối theo lao động thì nguyên tắc phân phối theo
vốn, tài sản và những đóng góp khác là một trong những nguyên tắc phân phối tất
yếu khách quan ở nớc ta hiện nay.
11
1.2.1. Tính tất yếu khách quan của nguyên tắc phân phối ngoài thù lao lao
động thông qua các quĩ phúc lợi xã hội.
Chúng ta biết rằng ngoài những ngời có sức khoẻ đang làm việc và đợc trả
công theo lao động, những ngời có vốn và tài sản đóng góp vào quá trình sản xuất
để đợc nhận lợi tức và lợi nhuận thì trong xã hội vẫn còn những ngời vì lẽ này hay
lẽ khác không thể tham gia lao động và đợc trả công của xã hội. Đó là những ngời
do ốm đau, bệnh tật mất sức lao động, ngời già không nơi nơng tựa, đời sống số
đông ngời này đợc gia đình hoặc xã hội bảo đảm. Mặt khác còn có cả một số cán
bộ công nhân viên Nhà nớc và những ngời làm việc trong các hành phần kinh tế
cũng không phải chỉ dựa vào tiền công cá nhân mà còn dựa vào các quỹ phúc lợi
công cộng của nhà nớc, của doanh nghiệp và tổ chức kinh tế xã hội mới đảm
bảo cuộc sống đợc. Do đó để nâng cao mức sống vật chất, của nhân dân đặc biệt là
tầng lớp nhân dân lao động sự phân phối thu nhập của mọi thành viên xã hội còn đ-
ợc thực hiện thông qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội.
*Nguyên tắc phân phối ngoài thù công lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã
hội là cần thiết và khách quan bởi các lí do sau đây:
- Đảm bảo cuộc sống cho những ngời không có khả năng lao động.
- Đảm bảo sự bình đẳng trong tiêu dùng và hởng thụ của ngời dân.
- Nớc ta phát triển nền kinh tế thị trờng nên tất yếu dẫn đến phân hóa giàu nghèo
từ đó dẫn đến mâu thuẫn do đó, cần phải giữ ổn định xã hội thông qua trợ cấp xã
hội làm giảm sự phân hóa đó.
- Có một số vật phẩm tiêu dùng trong xã hội cho cá nhân nhng không phân phối
cho cá nhân nào đợc do đó, phải dùng phúc lợi xã hội
Bằng những tác dụng to lớn của hình thức phân phối này, nó khẳng định việc
xây dựng các quỹ phúc lợi xã hội là việc làm rất cần thiết và ngày càng có ý nghĩa
to lớn và có thể khẳng định hình thức phân phối ngoài thù lao lao động qua quỹ
phúc lợi xã hội là một hình thức quá độ, nó có vai trò to lớn trong quá trình phát
triển xã hội nớc ta hiện nay.
1.3. Nội dung và hình thức biểu hiện các nguyên tắc phân phối
ở nớc ta hiện nay.
1.3.1. Nội dung và hình thức biểu hiện nguyên tắc phân phối theo lao động :
*Nội dung của nguyên tắc phân phối theo lao động:
12
Phân phối theo lao động là nguyên tắc phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cá nhân
dựa vào số lợn, chất lợng hay hiệu quả lao động mà họ đã cống hiến cho xã hội
không phân biệt màu da, tôn giáo, nam nữ.
Theo quy luật này, ngời làm nhiều hởng nhiều, ngời làm ít hởng ít, có sức lao
động mà không làm thì không đợc hởng, lao động có kĩ thuật cao, lao động ở
những ngành nghề đặc thù đều đợc hởng phần thu nhập thích đáng.
Các căn cứ cụ thể để phân phối theo lao động là:
- Số lợng lao động đợc đo bằng thời gian lao động hoặc số lợng sản phẩm đợc làm
ra.
- Trình độ thành thạo lao động và chất lợng sản phẩm làm ra.
- Điều kiện và môi trờng lao động: lao động nặng nhọc, lao động trong hầm mỏ
lao động ở những vùng nhiều khó khăn, xa xôi nh miền núi, hải đảo
*Phân phối theo lao động ở nớc ta đợc thực hiện theo những hình thức cụ thể sau:
- Tiền công trong các đơn vị sản xuất kinh doanh.
- Tiền thởng.
- Tiền phụ cấp.
- Tiền lơng trong các cơ quan hành chính sự nghiệp.
Phân phối theo lao động không có nghĩa là mỗi ngời lao động sẽ đợc phân phối
trực tiếp tất cả những gì họ đã cống hiến cho xã hội mà chỉ đợc hởng phần còn lại
sau khi đã khấu trừ cho các khoản cần thiết sau:
- Phần thay thế những t liệu sản xuất đã hao phí.
- Phần làm quỹ dự trữ và bảo hiểm xã hội.
- Phần về quản lí và quốc phòng.
- Phần thoả mãn các nhu cầu phúc lợi chung.
Các khoản khấu trừ này là cần thiết, tất yếu nhằm hoạt động bình thờng của xã
hội và suy cho cùng các khoản chi này phục vụ lợi ích ngời lao động.
13
1.3.2. Nội dung và hình thức biểu hiện nguyên tắc phân phối theo vốn, tài sản
và những đóng góp khác:
*Nội dung nguyên tắc phân phối theo vốn, tài sản và những đóng góp khác:
Phân phối theo vốn, tài sản và những đóng góp khác là nguyên tắc phân phối
vật phẩm tiêu dùng căn cứ vào vốn, tài sản của ngời sở hữu để phân phối.
*.Phân phối theo vốn, tài sản và những đóng góp khác ở nớc ta đợc thực hiện
theo những hình thức cụ thể:
- Lợi nhuận trong các đơn vị phụ thuộc thành phần kinh tế, cá thể, tiểu chủ và
thành phần kinh tế t bản t nhân. Hình thức thu nhập này do hình thức phân phối
theo nguyên tắc lợi nhuận trên vốn tự có mà họ trực tiếp tổ chức sản xuất kinh
doanh.
- Lợi tức cổ phần trong các đơn vị thuộc thành phần kinh tế tập thể và kinh tế t bản
nhà nớc. Hình thức này tơng ứng lợng vốn cổ phần mà họ nhận đợc với t cách là
ngời sở hữu.
- Lợi tức là hình thức thu nhập tơng ứng với vốn cho vay mà hộ nhận đợc với t
cách là ngời sở hữu đã nhờng quyền cho ngời đi vay.
1.3.3.Nội dung và hình thức biểu hiện nguyên tắc phân phối ngoài thù lao lao
động tông qua quỹ phúc lợi xã hội.
*Nội dung nguyên tắc phân phối ngoài thù lao lao động tông qua quỹ phúc lợi xã
hội:
Phân phối ngoài thù lao lao động tông qua quỹ phúc lợi xã hội là nguyên tắc
phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cá nhân nhằm bảo đảm những nhu cầu tiêu dùng
chung của xã hội và đảm bảo cuộc sống cho một số ngời không có khả năng lao
động (Những ngời tàn tật không có khả năng lao động, những ngời già không nơi
nơng tựa, trẻ mồ côi, ngời nghèo khổ so với mức sống chung toàn xã hội ).
*Phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi xã hội đợc thực
hiện theo những hình thức cụ thể:
Các khoản phúc lợi xã hội từ Nhà nớc, các tổ chức quốc tế, từ t nhân thông qua các
quĩ phúc lợi tập thể và xã hội. Nguyên tắc phân phối này đợc thực hiện thông qua
việc hình thành phân phối và sử dụng các quỹ: quỹ phúc lợi trong các doanh nghiệp
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét