Thứ Năm, 23 tháng 1, 2014

Ảnh hưởng của chế phẩm vi khuẩn nốt sần với các liều lượng đạm khác nhau đến năng suất lạc trong vụ Xuân 2010 tại HTX Hương Long, thành phố Huế

http://svnonglam.org – [W]ind
Theo số liệu của FAO trên thế giới hiện có trên 100 nước trồng lạc, với
tổng diện tích ít biến động ở các vụ trong năm. Tuy nhiên, sự phân bố về diện
tích, năng suất, sản lượng lại tập trung không đều giữa các khu vực trồng lạc
khác nhau trên thế giới, tập trung chủ yếu ở 3 châu lục là châu Á, châu Phi và
châu Mỹ. Trong đó, khoảng 90% diện tích lạc tập trung ở lục địa Á Phi. Ở các
nước châu Á chiếm 63,17% tổng diện tích, châu Phi 31,81%, châu Mỹ 5,8%,
châu Âu 0,22% [21]. Châu Á bao giờ cũng đứng đầu thế giới về sản lượng lạc.
2.1.2 Tình hình sản xuất lạc ở Việt Nam
2.1.2.1. Tình hình sản xuất lạc trong nước
Việt Nam là nước nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nên có những
điều kiện rất thích hợp cho cây lạc phát triển. Cây lạc đã được nhân dân ta
trồng từ lâu đời và đã trở thành thực phẩm thông dụng trong bữa ăn hàng
ngày của người dân.
Trong phạm vi toàn quốc, lạc được phân bố chủ yếu ở 4 vùng lớn là đồng
bằng và trung du Bắc Bộ, đồng bằng Sông Hồng, Khu IV cũ và miền Đông
Nam Bộ. Cả 4 vùng này chiếm trên 3/4 diện tích và sản lượng lạc, số còn lại
nằm rải rác ở các tỉnh .
Vùng trung du Bắc Bộ, cây lạc chủ yếu được trồng trên đất bạc màu như
ở Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc,…vụ lạc chính từ tháng 2 đến tháng 6.
Vùng đồng bằng Bắc Bộ thì trồng trên chân đất bãi ven sông, chân đất
bạc màu,…
Vùng duyên hải Bắc Miền Trung trồng trên vùng đất cát ven biển là
chính.Vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên thường lạc được trồng trên chân
đất cát ven sông suối, đất đỏ, đất đen.
Vùng Đông Nam Bộ trồng trên các loại đất đỏ bazan, đất đen,…
Trong các vùng, diện tích lạc tập trung nhiều nhất ở vùng duyên hải Bắc
Miền Trung. Với phương hướng phát triển sản xuất nông nghiệp là nền sản
xuất hàng hóa, phát huy các lợi thế của vùng chuyển dịch cơ cấu mùa vụ hợp
lý để né tránh thiên tai, tập trung phát triển cây màu, cây công nghiệp, cây ăn
quả. Trong đó, cây lạc là thế mạnh của vùng. Dự kiến đến 2010, diện tích lạc
toàn vùng đạt 93.000 ha [21], tập trung ở các tỉnh: Nghệ An, Thanh Hóa, Hà
http://facebook.com/windsvnl 5
http://svnonglam.org – [W]ind
Tĩnh,… Mở rộng diện tích lạc chủ yếu bằng phương pháp tăng vụ, thay đổi
công thức luân canh, chuyển một phần diện tích khoai lang xuân, đất cát ven
biển để trồng lạc .
Diễn biến về diện tích, năng suất, sản lượng lạc ở Việt Nam trong 10
năm qua được thể hiện ở bảng 2.2.
Bảng 2.2. Diện tích, năng suất và sản lượng lạc ở Việt Nam
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất (tạ/
ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
1998 269,4 14,3 386,0
1999 247,6 12,8 318,1
2000 244,9 14,5 355,3
2001 244,6 14,8 363,1
2002 246,7 16,2 400,4
2003 243,8 16,6 406,2
2004 263,7 17,8 469,0
2005 269,6 18,1 489,3
2006 249,3 18,6 464,9
2007 250,0 19,6 490,0
2008 256,0 20,09 533,8
(Nguồn: www.faostat.org.vn, 2009)[21]
Năm 1999 năng suất là 12.8 (tạ/ha) có giảm nhẹ so với năm 1998
(14,3 tạ/ha) do điều kiện khí hậu khắc nghiệt nên năng suất giám với năm
trước, nhưng đến năm sau đó năm 2000 14.5 (ta/ha) năng suất bắt đầu tăng
nên, năm sau cao hơn năm trước đến năm 2008 năng suất lạc bình quân cả
nước là 20,09 (tạ/ha).đưa sản lượng đạt mức 533,8 nghìn tấn tăng 147,8 nghìn
http://facebook.com/windsvnl 6
http://svnonglam.org – [W]ind
tấn so với năm 1998. Nhìn chung trong vòng gần 10 năm (1998-2007) tình
hình sản xuât lạc ở Việt Nam có nhưng thay đổi rõ rệt về năng suất cũng như
sản lượng trong khi diện tích canh tác hàng năm gần như không có nhiêu biến
đổi. Có được kết quả này là nhờ sự quan tâm, đầu tư nghiên cứu, chuyển giao
và ứng dụng ngày càng nhiều tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp nói
chung và sản xuất lạc nói riêng.
2.1.2.2. Tình hình sản xuất lạc ở Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế là một tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ. Đây là tỉnh có
nhiều tiềm năng để phát triển cây lạc. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh đến 2010 đã xác định diện tích trồng lạc là 8.000 ha và sản
lượng dự kiến là 16.000 tấn.
Ở tỉnh Thừa Thiên Huế cây lạc được xem là cây trồng quan trọng mang
lại hiệu quả kinh tế cao và ổn đỉnh. Nhiều nơi đã chuyển đổi cơ cấu mở rộng
diện tích trồng lạc, đầu tư vào sản xuất lạc nên diện tích và năng suất đã có
những thay đổi đáng kể trong những năm gần đây.
Qua số liệu thống kê ta thấy diện tích trồng lạc từ năm 2000 - 2002 liên
tục tăng đạt đến 4.880 ha (2002), đến năm 2003 có giảm do giá cả không ổn
định bên cạnh đó sự chuyển giao một phần đất trồng lạc sang trồng sắn theo
dự án nhà máy tinh bột sắn của tỉnh, nhưng từ năm 2004 đến nay diện tích
trồng lạc của tỉnh bắt đầu tăng lên nhẹ và sự tăng giảm diện tích là không lớn
lắm.Về năng suất, từ 2000 - 2007 có xu hướng tăng và đạt 20,0 tạ/ha vào năm
2007 tăng 6 tạ/ha so với năm 2000 (14,1 tạ/ha). Diện tích lạc ít thay đổi
nhưng do năng suất tăng nên sản lượng lạc ngày càng tăng, năm 2000 (5.500
tấn) đến năm 2007 (9.549 tấn) tăng 4.049 [19]. Đạt được những thành tựu trên
đáng kể trên là nhờ sự quan tâm đầu tư của tỉnh Thừa Thiên Huế đến nông
nghiệp nói chung và cây lạc nói riêng. Mặc dù vậy tiềm năng phát triển cây
lạc vẫn còn rất lớn, cần có những chính sách hợp lý để thúc đẩy phát triển
diện tích trồng lạc.
http://facebook.com/windsvnl 7
http://svnonglam.org – [W]ind
Bảng 2.3. Tình hình sản xuất lạc ở Thừa Thiên Huế
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
(ha)
Năng suất
(ta/Ha)
Sản lượng
(tấn)
2000 3900 14,1 5500
2001 4800 12,3 5900
2002 4880 14,9 7300
2003 4500 15,9 7300
2004 4670 17,0 7520
2005 4830 17,6 8400
2006 4720 18,6 8800
2007 4763 20,0 9549
2008 4100 15,3 6300
(Nguồn: Niên giám thống kê, 2007)[19]
2.2. Tình hình nghiên cứu về vi khuẩn nốt sần
Năm 1886, Hellriegel và Uynfac đã khám phá ra bí ẩn của quá trình cố
định nitơ phân tử. Họ đã chứng minh được khả năng của cây bộ đậu lấy được
nitơ khí quyển là nhờ vi khuẩn nốt sần sống ở vùng rễ cây bộ đậu và đặt tên
cho loại vi khuẩn này là Bacillus radicicola. Năm 1889, Pramovskii đã đổi tên
vi khuẩn này là Bacterium radicicola. Đến cuối năm 1889. Frank đề nghị đổi
tên là Rhizobium [6].
Vi sinh vật cộng sinh với cây bộ đậu, thuộc loại hiếu khí, Gram âm,
không sinh bào tử. Vi khuẩn nốt sần phát triển tốt ở pH 6,5 - 7,5; Nhiệt độ 24
- 26
o
C; Ẩm độ 50 - 70%. Có hình dạng thay đổi tuỳ theo từng giai đoạn phát
triển và điều kiện sống: Khi còn non có hình que ngắn, bắt màu đồng đều và
có khả năng chuyển động nhờ tiêm mao, khi về già bất động, tế bào có kích
thước lớn, phân nhánh thành các hình X, Y, V,…chứa nhiều glycogen,
volutin và lypoprotein gọi là thể giả khuẩn (Bacteroid). Thể giả khuẩn là trạng
http://facebook.com/windsvnl 8
http://svnonglam.org – [W]ind
thái duy nhất có khả năng cố định nitơ của vi khuẩn nốt sần, giai đoạn này
trùng với giai đoạn ra hoa của thực vật, khi đó cường độ cố định nitơ của
chúng là cực đại. Vi khuẩn nốt sần có tính chuyên hoá cao, mỗi loài chỉ có
khả năng xâm nhiễm một nhóm cây họ đậu nhất định. Theo Bergey (1957) thì
vi khuẩn Rhizobium bao gồm 6 loài: R. leguminosarum; R. phasseoli; R.
trifolii; R. lupine; R. japonicum; R. meliloti.
Ngay từ 1888, người ta đã phát hiện rằng vi khuẩn nốt sần cộng sinh
với cây trồng thuộc bộ đậu có thể cố định được nitơ trong khí quyển nhưng
khi nó sống đơn độc trong đất lại không làm được điều đó. Quá trình khử N
2
thành NH
3
là do sự tham gia Nitrogenaza trong vi khuẩn, Nitrogenaza tạo
thành từ 2 bản thể: Một bản thể có phân tử thấp và chứa Fe; Một bản thể có
phân tử lượng cao và chứa Fe+Mo. Khi ở trong đất, 2 bản thể này tách rời
nhau nên vi khuẩn không có khả năng cố định nitơ. Chỉ khi vào nốt sần có
ATP của lạc đã làm cho nó khít lại, khi đó quá trình khử nitơ mới diễn ra.
Sau khi rễ ăn sâu vào đất, nó tiết ra các chất hữu cơ (đường, axít hữu
cơ, vitamin, enzim,…) hấp dẫn vi khuẩn nốt sần tương ứng. Vi khuẩn nốt sần
xâm nhập vào rễ cây bộ đậu thông qua các lông hút hoặc những tế bào bị
thương của biểu bì và vỏ rễ, đặc biệt là những chỗ phân nhánh của rễ. Do sự
kích thích của vi khuẩn, rễ tiết ra chất dịch bao vây lấy đường đi của vi khuẩn
và cũng là chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn, chúng tạo thành dây xâm
nhập nên vi khuẩn chỉ tiến vào tầng nội bì của rễ. Trong dây xâm nhập vi
khuẩn tiếp tục sinh sản, làm kích thích các tế bào bị xâm nhiễm và các tế bào
bao xung quanh, chúng nhanh chóng vào các tổ mô phân sinh và hình thành
các tế bào mới, từ đó phình ra tạo thành nốt sần [11]. Những nốt sần có khả
năng cố định nitơ phải là những nốt có dịch màu hồng đỏ, đó là màu của
Leghemoglobin, khi nốt sần già không thấy có Leghemoglobin trong dịch, nốt
sần mất màu hồng đỏ và cũng không còn khả năng cố định đạm nữa.
Thời gian đầu, sự cố định nitơ chưa có ý nghĩa đối với sinh trưởng phát
triển của cây lạc. Từ khi lạc ra hoa, đặc biệt là thời kỳ ra hoa rộ và hình thành
quả, sự cố định nitơ ngày càng có ý nghĩa và quan hệ lúc này là quan hệ cộng
sinh: Vi khuẩn sử dụng nguồn dinh dưỡng cacbon của lạc (dưới dạng gluxít)
http://facebook.com/windsvnl 9
http://svnonglam.org – [W]ind
và năng lượng, đồng thời cung cấp N
2
dưới dạng NH
3
được cố định từ N
2
của
không khí [2]. Khi nốt sần già vỡ ra, vi khuẩn trở lại cuộc sống.
Theo ThomTon H.G, Kleczekowski 1950, John et al. 1950 cho biết :
“ Các chủng vi khuẩn nào có khả năng sống sót tối đa là những chủng có
khả năng tạo nốt sần tối đa”, chính vì vậy phải biết được khả năng cạnh tranh
tạo nốt sần của chủng vi khuẩn trước khi đưa ra đồng ruộng. Từ đó, khi sản
xuất chế phẩm vi khuẩn nốt sần cần phải chọn được những chủng có sức sống
cao, sinh trưởng, phát triển mạnh, có khả năng cố định đạm cao, đồng thời
phải cạnh tranh được với các loại vi sinh vật đối kháng trong đất.
2.3. Vai trò của vi khuẩn nốt sần
Vi sinh vật có vai trò rất lớn trong quá trình chu chuyển vật chất, nó tồn
tại và phát triển khắp nơi trên trái đất như: Trong đất , nước, không khí và
trên bề mặt các vật và trong cơ thể động thực vật. Nó góp phần biến đổi đá mẹ
thành đất, làm nên độ mùn của đất, làm giàu chất hữu cơ trong đất, nó có vai
trò rất lớn trong đời sống hàng ngày của con người và đặc biệt trong đất, vi
sinh vật giúp phân hủy xác bã hữu cơ. Theo nhiều tài liệu thì trung bình trong
đất vi khuẩn chiếm 90% tổng số, xạ khuẩn chiếm 8%, vi nấm chiếm 1%, còn
lại 1% là tảo và nguyên sinh động vật. Chúng tập trung và hoạt động mạnh ở
vùng rễ cây. Trong đó thì nhóm vi sinh vật nốt sần cộng sinh với cây bộ đậu
đang được mọi người quan tâm. Ngoài việc phân huỷ các chất hữu cơ trong
đất thì chúng còn có khả năng cố định nitơ trong không khí để cung cấp nitơ
dễ tiêu cung cấp cho cây trồng [5].
Trong khí quyển, N
2
chiếm 76,16% thể tích khí quyển. Lượng N
2
trong lớp khí quyển bên trên mỗi km
2
đất có khoảng 800.000 tấn nitơ,
lượng đủ cho cây sống trên kkhoảng 80 triệu năm nếu cây trồng đồng hoá
được chúng. Tuy nhiên con người cũng như cây trồng lại không thể tự lấy
nitơ từ không khí vì phân tử N
2
trong khí quyển tồn tại ở trạng thái liên
kết ba rất bền vững [13]. Muốn phá vỡ liên kết này người ta phải sử dụng
một năng lượng rất lớn để hoạt hoá. Dĩ nhiên trong cơ thể sinh vật không
thể đáp ứng được những điều kiện như trên. Thế nhưng vi khuẩn nốt sần
http://facebook.com/windsvnl 10
http://svnonglam.org – [W]ind
và một số vi sinh vật nhờ có những hệ enzim có hoạt tính xúc tác mạnh là
nitrogenaza, cũng có khả năng cố định N
2
trong điều kiện bình thường.
Với tiến bộ khoa học kỹ thuật, con người đã sản xuất được phân đạm
hoá học bằng cách phá vỡ liên kết ba trong phân tử nitơ, việc sản xuất phân
đạm hoá học ngày càng tăng nhưng cũng chỉ đáp ứng một phần nhỏ lượng
nitơ mà cây trồng lấy đi khỏi đất. Hàng năm sản phẩm nông nghiệp lấy đi
khỏi đất khoảng 100 -110 triệu tấn N, trong khi đó phân đạm hoá học chỉ bổ
sung được 30% số đạm bị lấy đi, chưa kể lượng phân đạm mà cây cần.
Đối với lạc, N là yếu tố quan trọng bởi vì cây lạc chứa một lượng lớn
trong thân, lá vá hạt lạc. Theo tài liệu của Xênêgan, một tấn lạc quả lấy đi 46
– 52 kg N. Khi thiếu N cây sinh trưởng và phát triển kém, lá chuyển màu
vàng, thân chuyển nâu đỏ, nếu thiếu N nghiêm trọng thì sau hai tháng có thể
chết đến 50% [12].
Tổ chức nông lượng thế giới (FAO) đã ước tính khả năng cố định nitơ
cộng sinh của vi khuẩn nốt sần làm tăng năng suất của lạc 10 - 15%, thậm chí
50% ở vùng trồng lạc trên đất mới, đồng thời tăng phẩm chất một cách rõ rệt.
Bón vi khuẩn nốt sần còn có tác dụng thúc đẩy quá trình sinh trưởng phát
triển của cây nhanh hơn, sớm ra hoa đậu quả, số lượng nốt sần trên rễ nhiều
hơn, giảm tỉ lệ sâu bệnh từ 25 - 50% so với bón phân hoá học [3].
Trong điều kiện tối ưu cây lạc có thể cố định được 200 - 600
kgN/ha/năm, vì vậy có khả năng cung cấp 50 - 60% nhu cầu đạm cho cây
trồng, chính vì thế trong quá trình trồng lạc có thể giảm được 50 - 100 kg ure/
ha. Nhằm phát huy vai trò tối ưu của vi khuẩn nốt sần, người ta sản xuất ra
chế phẩm nitragin (chế phẩm vi khuẩn nốt sần), chế phẩm này được dùng để
bón cho đất trồng lạc hoặc tẩm vào hạt giống trước khi gieo [11].
Mặt khác, vi khuẩn nốt sần có vai trò trong cải tạo đất. Trong cuộc cách
mạng xanh, phân bón hoá học được coi là một công cụ hữu hiệu giải thoát
nhân loại ra khỏi nạn đói triền miên. Nó làm tăng năng suất cây trồng rõ rệt.
Tuy nhiên, sau hơn nửa thế kỷ sử dụng rộng rãi đến mức lạm dụng phân hoá
học, các nước tiên tiến chợt nhận ra mặt trái của vấn đề là chất hoá học sử
dụng trong nông nghiệp đã gây ô nhiểm cho môi trường không khi, đất, nước.
Khi bón nhiều phân hoá học gây ra sự mất cân đối về dinh dưỡng do thiếu hụt
http://facebook.com/windsvnl 11
http://svnonglam.org – [W]ind
chất hữu cơ, làm giảm đi sự hoạt động của vi sinh vật có ích trong đất, tập
đoàn gây bệnh tăng lên kèm theo đó là nhiều loài sâu bệnh nguy hiểm gây
bệnh cho cây trồng. Đồng thời, vấn đề về dư lượng nitrat trong nông sản gây
ra một số bệnh cho cây trồng và vật nuôi làm ảnh hưởng đến nông sản và ô
nhiễm môi trường sống.
Theo tính toán, trên trái đất có khoảng 100 triệu tấn đạm được tổng hợp
từ khí trời, trong đó có 55 triệu tấn được tổng hợp qua nốt sần cây bộ đậu, vi
khuẩn sống cộng sinh rễ cây bộ đậu tạo ra khoảng 25 triệu tấn, vi khuẩn cộng
sinh tạo ra 1 - 2 triệu tấn, tảo xanh tạo ra khoảng 10 tiệu tấn. Đạm ure sản
xuất trong công nghiệp chiếm khoảng 10% tổng lượng đạm trên thế giới. Do
đó sự tổng hợp N của vi sinh vật có tác dụng quan trọng tạo ra sự cân bằng
đạm trong đất, làm tăng độ màu mỡ của đất đồng thời cung cấp đạm cho nhu
cầu đạm của cây.
Kết quả nghiên cứu của viện cây trồng nhiệt đới - Cộng hoà liên bang
Nga cho thấy cứ 3 năm trồng cây đậu đỗ làm giàu cho đất 300 - 600 kgN/ha;
cho 13 - 15 tấn mùn, cải thiện quá trình khoáng hoá trong đất và đẩy ra từ keo
đất 60 - 80 kg P
2
O
5
, 80 - 120 kg K
2
O/ha/năm, có thể thay thế được 20 - 60 kg
đạm ure [10].
Hàng năm cây trồng lấy đi từ đất hàng triệu tấn N, bằng cách bón phân
con người trả lại cho đất khoảng hơn 40%, lượng thiếu hụt còn lại cơ bản
được bổ sung bằng N do hoạt động sống của vi sinh vật. Vì vậy, hiện nay việc
nghiên cứu và sử dụng nguồn đạm sinh học được xem là giải pháp quan trọng
trong nông nghiệp, đặc biệt là trong xu hướng phát triển nền nông nghiệp bền
vững của thế kỷ XXI [2].
2.4. Tình hình sản xuất và sử dụng chế phẩm vi khuẩn nốt sần trên thế
giới và Việt Nam.
2.4.1. Tình hình sản xuất và sử dụng chế phẩm vi khuẩn nốt sần trên thế giới
Phân bón vi sinh do Noble Hiltmer sản xuất lần đầu tiên tại Đức năm
1896 và được đặt tên là nitragin. Sau đó loại phân này được phát triển sản
xuất tại nhiều nước trên thế giới như ở Mỹ (1896), Canada (1905), Nga
(1907), Anh (1910), Thụy Điển (1914) [22], và nhờ công nghệ tiên tiến mà
ngày càng phong phú và phát huy tác dụng cao.
http://facebook.com/windsvnl 12
http://svnonglam.org – [W]ind
Ở Mỹ năm 1895 lần đầu tiên người ta đã sản xuất được nitragin - phân
vi sinh để đưa vào ứng dụng trong nông nghiệp. Số lượng phân vi khuẩn nốt
sần sản xuất ở Mỹ hàng năm có thể xử lý cho 650 nghìn tấn hạt giống cây bộ
đậu (Erdman 1962) [14]. Năm 1968, hơn 70% diện tích trồng đậu đã được xử
lý bằng chế phẩm vi sinh vật cố định đạm.
Ở Nga, vào đầu thế kỷ XX người ta đã bắt đầu thí nghiệm dùng chế
phẩm vi khuẩn nốt sần để tẩm cho cây bộ đậu và sau cách mạng tháng Mười
những thí nghiệm đó đã được mở rộng. Nhà nông học Xô Viết nổi tiếng
Doyarenko A.G đã viết rằng : “ Ở Liên Xô việc sử dụng chế phẩm vi khuẩn
nốt sần đã trở thành biện pháp cơ bản phổ biến trong trồng trọt ” [14].
Tại các nước Đông Nam Á, Thái Lan là nước sử dụng phân vi khuẩn
nốt sần nhiều nhất. Theo thống kê của Kong ngoen et al., số lượng chế phẩm
vi khuẩn nốt sần được sử dụng ở Thái Lan đã tăng từ 3,36 tấn/năm 1995 lên
203,28 tấn/năm 1997, tương đương với giá trị hàng hoá là 406,571 USD [5].
Nhu cầu về phân bón vi sinh vật trên thế giới là rất lớn, và đây là
phương hướng tương lai của nông nghiệp để nhằm giảm bớt các tác hại của
việc sử dụng không cân đối các loại phân hoá học, việc làm này gây ô nhiễm
môi trường và chi phí quá nhiều ngoại tệ cho nhập phân bón hữu cơ.
2.4.2. Tình hình sản xuất và sử dụng chế phẩm vi khẩn nốt sần ở Việt Nam.
Trong những năm gần đây, được sự quan tâm và nghiên cứu của các nhà
khoa học trong và ngoài nước, phân vi sinh cố định đạm đã được ứng dụng
rộng rãi và mang lại những kết quả đáng khích lệ, thúc đẩy nghành sản xuất
cây đậu đỗ Việt Nam phát triển khá nhanh và cho năng suất cao.
Ở Việt Nam phân vi sinh cố định đạm, phân giải lân đã được nghiên cứu
từ năm 1960 nhưng mãi đến 1980 mới đem vào thử nghiệm loại phân vi sinh
cho cây đậu tương và chế phẩm Vinaga, Rhidafo cho cây lạc (Của trường ĐH
Cần Thơ) Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam phối hợp với ĐH
nông nghiệp I Hà Nội, ĐH tổng hợp Hà Nội, sản xuất chế phẩm nitragin bón
cho lạc, đậu tương có kết quả khả quan.
Đến năm 1987, quy trình sản xuất nitragin trên nền chất mang là than
bùn hoàn thiện trong chương trình 52B - 01-03.
http://facebook.com/windsvnl 13
http://svnonglam.org – [W]ind
Từ 1980 trở đi những kết quả nghiên cứu của Viện khoa học kỹ thuật
nông nghiệp Việt Nam về chế phẩm vi khẩn nốt sần đã được áp dụng, tỷ lệ
diện tích được nhiễm đã được tăng lên, được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2.4. Tình hình sử dụng chế phẩm nitragin cho cây đậu đỗ ở Việt Nam
Năm
Diện tích trồng
(1000ha)
Diện tích xử lý
(ha)
Tỷ lệ xử lý
(%)
1979 96,7 0 0,00
1980 106,1 4 0,03
1981 120,1 8 0,06
1982 130,8 12 0,09
1983 141,1 40 0,28
1984 170,4 50 0,29
1985 212,7 100 0,47
1986 224,5 200 0,89
1987 237,8 250 1,00
1988 230,0 320 1,39
1989 238,2 380 1,82
1990 204,2 400 1,95
(Niên giám thống kê Việt Nam năm 2008)[21]
Tuy nhiên, việc sản xuất và sử dụng chế phẩm vi khuẩn nốt sần ở Việt
Nam vẫn còn một số hạn chế nhất định như: Các kết quả nghiên cứu thu được
chỉ dừng lại ở mức độ phòng thí nghiệm, nếu có đưa ra áp dụng thì hiệu quả
cũng chưa cao do các chủng vi khuẩn không phù hựp với các điều kiện thực tế
sản xuất. Thêm vào đó chúng ta chưa có nhà máy chuyên sản xuất đủ để cung
ứng cho cả nước. Vì vậy cần phải có chính sách đầu tư hợp lý và kịp thời để
xây dựng các cơ sở chuyên sản xuất phân bón vi sinh và rút ngắn khoảng cách
phòng thí nghiệm ra đồng ruộng.
http://facebook.com/windsvnl 14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét