vọng góp phần voà việc nâng cao hiệu quả sử dụng văn hoá kinh doanh trong
giao dịch đàm phán với các đối tác Nhật bản trong thời gian tới.
Có thể thấy đây là một đề tài khá phức tạp, cộng thêm những hạn chế nhất
định của ngời viết nên bài luận văn này chắc chắn không thể tránh khỏi đợc các
thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong nhận đợc những lời nhận xét, góp ý từ phía thầy
cô, bè bạn để có cơ hội hoàn thiện những nhận thức về vấn đề này.
Cuối cùng, trớc khi bớc vào phần trọng tâm của bài luận văn, tôi xin gửi
lời cám ơn chân thành tới Tiến sỹ Phạm Duy Liên, ngời đã hết sức nhiệt tình
giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành bài luận văn tốt nghiệp này.
Hà nội, tháng 12 năm 2002
Trần Thị Bảo Ngọc
- -
5
chơng i
Tổng quan về văn hoá kinh doanh và đàm phán thơng mại
quốc tế
1.1 Lý luận chung về văn hoá kinh doanh
1.1.1 Mối quan hệ giữa văn hoá và kinh doanh
1.1.1.1 Khái niệm "văn hoá"
Thuật ngữ Văn hoá bắt đầu xuất hiện vào cuối thế kỷ 18 (năm 1793). Đây
là một thuật ngữ hết sức quen thuộc với đời sống thờng nhật. Tuy vậy tới nay,
các nhà khoa học vẫn cha có cách hiểu thống nhất về khái niệm này. Kể từ khi
xuất hiện cho tới nửa cuối thế kỷ 20, tức khoảng 2 thế kỷ, theo thống kê sơ bộ
của một học giả ngời Pháp, tên là A. Mô lô trong tác phẩm Tính xã hội của văn
hoá, đã có khoảng 250 định nghĩa về văn hoá [5,36]. Năm 1952, Kroeber và
Kluchohn đã thống kê đợc 164 định nghĩa về văn hoá [5,35]. Điều đáng chú ý
là giữa các định nghĩa này lại thiếu sự thống nhất. Sở dĩ có nhiều cách nhìn
nhận về cùng một vấn đề nh thế là do các tác giả xem xét vấn đề từ nhiều góc
độ tiếp cận khác nhau. Cùng với thời gian những định nghĩa này ngày càng đợc
bổ sung và hoàn thiện, để từ đó chúng ta có thể hiểu đúng hơn về mối quan hệ
biện chứng giữa văn hoá và phát triển. Vậy cần phải hiểu khái niệm này nh thế
nào ?
Xét về mặt ngôn từ: Văn hoá xuất phát từ một thuật ngữ La tinh là
Cultus có nghĩa là trồng trọt. Đây là một khái niệm rộng, gồm có 2 mặt:
Văn hoá vật chất - tức là trồng nên cây trái để giúp cho con ngời tồn tại và Văn
hoá tinh thần - tức giáo dục, cải tạo con ngời sống tốt đẹp hơn.
- -
6
Theo quan điểm của các nhà nhân loại học: "Văn hoá hay Văn minh xét
theo nghĩa nhân loại học nói chung, là tổng thể bao gồm tri thức, tín ngỡng,
nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và bất cứ khả năng và thói quen nào
mà con ngời thu nhận đợc với t cách là thành viên của xã hội. Điều kiện Văn
hoá trong các xã hội loài ngời khác nhau, ở một chừng mực có thể kiểm soát đ-
ợc theo những nguyên tắc chung, là đối tợng thích hợp để nghiên cứu quy luật t
duy và hành động của con ngời" (Edward.B.Tylor) [12,23].
Định nghĩa trên liệt kê một cách khá đầy đủ các yếu tố cấu thành nên khái
niệm song lại ít quan tâm tới khái niệm văn hoá vật chất - vốn là một bộ phận
khá phong phú trong kho tàng văn hoá nhân loại.
Bách khoa toàn th Anh (trang 741) cho rằng có thể coi Văn hoá và Văn
minh là hai từ đồng nghĩa. Từ đó có thể nói tất cả những biến đổi do con ngời
tạo ra ở ngoài cơ thể đợc gọi là các thành tựu văn hoá, tập hợp các thành tựu
ấy ta gọi là văn hoá, các thời kỳ đỉnh cao của văn hoá ta gọi là văn minh
[5,20]. Khái niệm này đã nhấn mạnh đợc hàm ý: nói đến văn hoá là phải nói
đến con ngời, mà nói đến con ngời trớc hết phải nói đến t tởng, tâm lý, t duy,
tình cảm Đó là cốt lõi của văn hoá. Lịch sử văn hoá là lịch sử con ngời và loài
ngời đã tạo nên văn hoá. Ngợc lại, văn hoá làm cho con ngời trở thành ngời.
Song định nghĩa này lại thiếu tính cụ thể với cách hiểu còn chung chung
Trong lĩnh vực tâm lý học, các học giả lại định nghĩa "Văn hoá là hành
vi, hành động, thái độ của con ngời" [5,20]. Vì vậy, bên cạnh giáo dục tri thức,
kỹ năng, phải đặc biệt coi trọng giáo dục các thái độ mà chúng ta gọi chung là
nhân cách văn hóa. Cách hiểu nh vậy mới chỉ đề cập đến văn hoá tinh thần, còn
thiếu tính cụ thể.
Đứng trên bình diện kinh tế, các nhà khoa học lại đánh giá Văn hoá theo
một cách khác. Czinkta cho rằng Văn hoá là một hệ thống những cách c xử
đặc trng cho các thành viên của bất kỳ một xã hội nào. Hệ thống này bao gồm
- -
7
mọi vấn đề, từ cách nghĩ, nói, làm, thói quen, ngôn ngữ, sản phẩm vật chất, và
những tình cảm, quan điểm chung của các thành viên đó [5,26]
Nói tóm lại, khái niệm Văn hoá hàm ý về các hành vi, t duy, tình cảm,
các sản phẩm vật chất của các cộng đồng ngời riêng biệt, vốn đợc đúc kết, lan
truyền và chia xẻ từ đời này sang đời khác, đợc truyền bá từ nơi này sang nơi
khác.
Một điều cần làm sáng tỏ khi đề cập tới khái niệm này đó là: hiện nay, trên
thế giới, trong bối cảnh các hoạt động giao lu kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội đang diễn ra hết sức nhộn nhịp, thì các quốc gia hầu hết là quốc gia đa văn
hoá, đa dân tộc, với nhiều tôn giáo, nhiều ngôn ngữ khác nhau. ấn độ là một
quốc gia đa văn hoá điển hình với nhiều tôn giáo khác nhau: đạo Phật, đạo
Hindu, đạo Sikls, đạo Hồi Về ngôn ngữ, ở ấn độ, nói 20 ngôn ngữ chính.
Thuỵ sĩ cũng là nớc đa ngôn ngữ với 75% dân số nói tiếng Đức, 20% nói tiếng
Pháp, 3-4% nói tiếng ý, 1% nói tiếng Roman. Quản lý một quốc gia đa văn hoá
là một việc làm không hề dễ dàng. Phải mất 600 năm, Thuỵ sĩ mới thiết lập đợc
một chiến lợc quản lý trên một đất nớc có nhiều nền văn hoá, ngôn ngữ khác
nhau nh vậy. Do đó hiểu đúng về khái niệm văn hoá cũng nh hiểu đợc nội hàm
phức tạp của khái niệm này sẽ cho chúng ta cơ sở quan trọng để tìm hiểu khái
niệm văn hoá kinh doanh.
1.1.1.2 Khái niệm "kinh doanh"
* Định nghĩa
Kinh doanh là một hoạt động cơ bản của xã hội loài ngời. Hoạt động này
xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện của nền sản xuất hàng hoá. Ngay từ thời cổ
đại, kinh doanh đã mang t cách là một ngành nghề với sự góp sức của tầng lớp
doanh nhân.
Vậy kinh doanh là gì ?
- -
8
Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên định nghĩa về kinh doanh nh sau:
Kinh doanh tức là dùng công sức, tiền tài mà tổ chức các hoạt động để kiếm
lời nh buôn bán, mở nhà máy [20,573]. Định nghĩa này rõ ràng là còn thiếu,
còn chung chung, cha nêu đợc bản chất của hoạt động kinh doanh.
Từ điển Từ và ngữ Việt nam của Nguyễn Lân giải thích: "kinh doanh là tổ
chức hoạt động về mặt kinh tế để sinh lời [21,994]. Định nghĩa này chỉ làm
nổi bật đợc mục đích tối thợng của kinh doanh, còn vẫn thiếu tính cụ thể.
Học giả Đỗ Minh Cơng trong cuốn Văn hóa kinh doanh và Triết lý kinh
doanh đã đa ra một số định nghĩa về khái niệm này nh sau:
Kinh doanh là một dạng thức của kinh tế với mục đích chính là đạt đ-
ợc lợi nhuận cho chủ thể.
Kinh doanh là tất cả nhứng hoạt động có mục tiêu cơ bản là đạt đợc
lợi nhuận cho chủ thể.
Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn
của quá trình đầu t từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trờng nhằm mục đích sinh lợi [19,994].
Trong ba định nghĩa trên về kinh doanh, có thể thấy định nghĩa thứ ba là
đầy đủ và cụ thể nhất. Với cách hiểu này, có thể thấy kinh doanh giữ một vai
trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội: Kinh doanh là tác nhân đồng thời
là điều kiện và phơng tiện thúc đẩy nền khoa học kỹ thuật và công nghệ phát
triển, tạo ra sự thoả mãn ngày càng cao nhu cầu của xã hội loài ngời trên tất
cả mọi lĩnh vực.
* Đặc điểm
Các yếu tố cấu thành nên hoạt động kinh doanh bao gồm:
- -
9
Chủ thể kinh doanh là những ngời làm kinh doanh, gồm các cấp độ nh
cá nhân, nhóm và tổ chức, cả tầng lớp doanh nhân.
Khách thể kinh doanh là khách hàng của chủ thể, bao gồm ngời tiêu
dùng (cá nhân hoặc tập thể), các nhà kinh doanh khác
Đối tợng kinh doanh thì tuỳ thuộc vào các lĩnh vực kinh doanh, hình
thức kinh doanh mà có thể là khác nhau. Ví dụ nh: kinh doanh thơng
mại (bao gồm mua bán, trao đổi, lu thông), kinh doanh sản xuất, kinh
doanh dịch vụ (du lịch, t vấn, giáo dục, y tế, viễn thông ) hoặc kinh
doanh trên cả ba lĩnh vực: thơng mại, sản xuất, dịch vụ Trong số các
loại hình trên, có thể nói kinh doanh thơng mại là phổ biến nhất. Lịch
sử đã từng chứng kiến những kiểu kinh doanh thơng mại đỉnh cao nh
việc bỏ tiền đút lót để buôn vua của Lã Bất Vi thời Chiến quốc tại
Trung quốc.
Mục đích chính của hoạt động kinh doanh thờng là đạt đợc, đem lại lợi
nhuận cho chủ thể kinh doanh. Dĩ nhiên cũng có trờng hợp trong một
vài vụ giao dịch kinh doanh, lợi nhuận không là mục đích chính nh
biểu diễn nghệ thuật để quyên tiền ủng hộ đồng bào bị bão lụt Song
đây là những trờng hợp cá biệt không có tính chất lâu dài, và không thể
hiện đợc bản chất của hoạt động kinh doanh.
Bản chất của quan hệ kinh doanh đợc thể hiện trong mối quan hệ trao
đổi, ràng buộc lẫn nhau giữa chủ thể và khách thể. Ngời kinh doanh
phải căn cứ vào nhu cầu, thị hiếu, sở thích của các khách hàng mục tiêu
mà anh ta nhắm vào để cung cấp cho họ một lợng hàng hoá, dịch vụ
nào đó, nhằm thu một lợng tiền với một mức lợi nhuận nhất định. Ngợc
lại, khách hàng có quyền chấp nhận hàng hoá và trả tiền hay không,
qua đó thực hiện việc có bỏ phiếu hay không cho sự thành đạt của
doanh nghiệp.
- -
10
Nguyên tắc cơ bản của kinh doanh là đôi bên (chủ thể và khách thể)
cùng có lợi.
Trên đây, chúng ta vừa tìm hiểu hai khái niệm là khái niệm văn hoá và
khái niệm kinh doanh. Hiểu đúng về hai khái niệm sẽ giúp chúng ta nắm đợc
mối quan hệ biện chứng, hữu cơ giữa hoạt động kinh doanh và các yếu tố văn
hoá.
1.1.1.3 Mối quan hệ giữa văn hoá và kinh doanh
Thứ nhất, "Kinh doanh có văn hoá" tạo cơ sở cho một sự phát triển bền
vững
Từ trớc tới nay, văn hoá thờng bị liệt vào lĩnh vực sản xuất phi vật chất,
luôn phụ thuộc vào lĩnh vực kinh tế. Kinh tế có phát triển thì mới có điều kiện
vật chất để phát triển văn hoá.Tuy nhiên, Khi các mục tiêu tăng trởng kinh tế
đợc đặt ra mà tách rời môi trờng văn hoá thì kết quả thu đọc sẽ rất khập khiễng,
mất cân đối cả về kinh tế lẫn văn hoá, đồng thời tiềm năng sáng tạo của mỗi dân
tộc sẽ bị suy yếu đi rất nhiều (Tổng Giám Đốc UNESCO F.Mayor) [5,33].
Điều này là dễ hiểu vì bản chất của hoạt động kinh doanh là lợi nhuận: Với
một lợi nhuận thích đáng thì t bản trở nên can đảm. Đợc bảo đảm 10% lợi
nhuận thì ngời ta có thể dùng t bản vào đâu cũng đợc; đợc 20% thì nó hoạt bát
hẳn lên; đợc 50% thì nó trở nên thật sự táo bạo; đợc 100% thì nó chà đạp lên
mọi luật lệ của loài ngời; đợc 300% thì không còn tội ác nào là nó không dám
phạm, dù có nguy cơ bị treo cổ(C.Mác) [19,22].
Về vấn đề này, những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu cho
thấy: Sự thành công và năng động của các quốc gia Châu á - Thái Bình Dơng là
do có sự bắt nguồn từ các yếu tố truyền thống, trong đó tính cộng đồng và ý
thức dân tộc thể hiện rất cao trong quan hệ làm ăn, kinh doanh, sự ham học hỏi,
- -
11
ham hiểu biết, sự cần cù vơn lên và tính nghiêm túc, kỷ luật cao trong công việc
đã đợc nhấn mạnh.
Nền kinh tế Việt nam cũng đã có một bớc tiến đáng kể. Nguyên nhân
thành công thực ra không phải do sự thúc đẩy tự động của các nhân tố kinh tế
đơn thuần (nh vốn, công nghệ, thông tin ) mà trớc hết, là nhờ ở đổi mới t duy
trên cơ sở lấy dân làm gốc, đặt con ngời vào vị trí trung tâm của mọi chủ tr-
ơng, chính sách và kế hoạch phát triển, khơi dậy và nhân lên các tiềm năng sáng
tạo của mọi tầng lớp nhân dân bắt nguồn từ những giá trị truyền thống của dân
tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại. Các nhân tố văn hoá có tác động tích cực tới
kinh doanh thì ngợc lại, kinh doanh có phát triển bền vững cũng tạo các tiền đề
vật chất hỗ trợ phát triển các hoạt động văn hoá. Chẳng hạn nh ngày nay, một
số doanh nghiệp thành đạt vẫn thờng tài trợ cho các hoạt động văn hoá, thể
thao. Một số công ty lớn còn lập các quỹ tài trợ cho các lĩnh vực phát triển văn
hoá, giáo dục, và khoa học nh quỹ Ford, quỹ Rốc cơ phen lơ, quỹ Toyota, quỹ
học bổng của Sumitomo Đơng nhiên, đây cũng đợc coi nh một thủ thuật
Marketting của các hãng, song qua đó ta cũng thấy đợc sự tác động của kinh
doanh đối với các hoạt động văn hoá.
Nh vậy, chỉ có trên cơ sở mối quan hệ hài hoà giữa kinh doanh và văn hoá
thì các quốc gia mới mong đạt tới sự phát triển năng động, có hiệu quả và chất
lợng cao về mọi mặt của đời sống.
Thứ hai, Bản thân văn hoá cũng là một ngành kinh doanh
Mỗi một dân tộc đều có những nét riêng biệt về văn hoá trên từng lĩnh vực,
gọi là bản sắc văn hoá. Khi các giá trị văn hoá truyền thống ấy trở thành đối t-
ợng kinh doanh, doanh nghiệp sẽ vừa thu đợc lợi nhuận lại vừa có thể quảng bá
bản sắc văn hoá của dân tộc mình ra tầm thế giới.
Ai cũng biết rằng, ở Nhật bản có văn hoá uống trà, vốn đợc gọi là trà
đạo. Trình tự, động tác pha trà hầu nh ở nơi nào mà chả giống nhau. Thế nhng,
- -
12
văn hoá uống trà ấy của Nhật bản vẫn thu hút biết bao du khách tới Nhật để
mong đợc một lần đợc dự một bữa tiệc trà và đợc thởng thức một htú vui tao
nhã. Tiệc trà Huế cũng lịch lãm không kém. Nớc pha trà phải là sơng đêm đọng
trên lá sen. Trà phải ớp trong hoa sen qua đêm cho ngấm hơng. Và do cái nếp
pha trà đó, mà nhiều vị khách ngời nớc ngoài đã kiên nhẫn ngồi với một tiệc trà
Huế hàng mấy tiếng đông hồ.
Một trong những cơ hội kinh doanh rõ rệt nhất bắt nguồn từ văn hoá là du
lịch. Tại Châu á ngày nay, du lịch là một thị trờng đầy triển vọng. Sự phát triển
ngoạn mục của ngành du lịch là một trong những thay đổi đáng kể nhất trong
thơng mại quốc tế vào nửa sau thế kỷ 20. Doanh thu của hoạt động du lịch quốc
tế tăng tới 18 lần từ năm 1970 đến 1993, từ 18 tỷ USD lên 324 tỷ USD. Năm
1996, ngành du lịch chiếm gần 10% hoạt động thơng mại quốc tế [24,1]. Ngoài
nguồn lợi xét về mặt thơng mại ra, ngành du lịch còn có một vai trò rất lớn
trong việc truyền bá các giá trị văn hoá, truyền thống của một quốc gia với thế
giới. Tuy nhiên, điều làm cho các quốc gia đang đau đầu hiện nay là liệu sự
phát triển này có là bền vững trong tơng lai mà không làm xuống cấp các tài sản
văn hoá vô giá đó.
Số lợng du khách ngày càng tăng đòi hỏi phải mở rộng thêm cơ sở vật chất
mà có nguy cơ biến những nơi yên ả, thanh bình, đầy nét truyền thống và mang
đậm bản sắc hấp dẫn trở thành những nơi họp chợ ồn ào, rẻ tiền, và bẩn thỉu. Do
nhiều nớc ra sức mở rộng nhanh chóng cơ sở vật chất để phát triển du lịch ồ ạt
kiểu con buôn nên tính xác thực của yếu tố văn hoá truyền thống bản địa đang
bị chết dần, chết mòn. Mỉa mai là chính yếu tố văn hoá và các phong tục truyền
thống xác thực lại là cái mà các khách du lịch muốn xem khi thăm di tích.
Vấn đề này đã đợc bàn đến tại Việt nam trong Hội thảo do Trung tâm di
sản Thế giới của UNESCO và ủy ban Quốc gia UNESCO của Việt nam tổ chức
tại Huế về Du lịch bền vững và sự phát triển di sản văn hoá. Một trong những
- -
13
khía cạnh quan trọng nhất cuả cuộc Hội thảo nói trên là làm sáng tỏ vai trò tiềm
năng của ngành du lịch trong việc bảo tồn và duy trì di sản văn hoá có thể làm
tăng hiểu biết và lòng tự hào vủa ngời dân về lịch sử và nền văn minh của mình.
Ngoài các hình thức kinh doanh kể trên, văn hoá cũng có thể trở thành một
lĩnh vực đem lại lợi nhuận thông qua việc mua bán các sản phẩm thủ công mỹ
nghệ hay qua việc biểu diễn các bộ môn nghệ thuật truyền thống Có thể thấy
rằng: văn hoá là cái vĩnh cửu, trờng tồn của dân tộc. Bởi thế, nếu các doanh
nhân chịu khó tìm hiểu kho tàng văn hoá dân tộc và suy nghĩ về nó trên góc độ
kinh doanh thơng mại, sẽ thấy ngay rằng chúng ta thừa sức làm giàu bằng chính
nội lực văn hoá của minh.
Thứ ba, Văn hoá và kinh doanh là hai lĩnh vực có các ngành chuyên biệt
phục vụ mục đích của nhau
Trong kinh doanh đã có một nền văn hoá kinh doanh thể hiện ở sự vận
dụng khoa học và kỹ thuật, tổ chức và quản lý kinh doanh, ở nhứng cách thức
giao tiếp và ứng xử trong kinh doanh, thơng mại. Ngoài ra, có những ngành
thuộc lĩnh vực văn hoá cũng có những bộ phận làm công việc kinh doanh. Công
việc kinh doanh giúp cho các ngành đó có thêm điều kiện phát triển bản thân
ngành mình, làm nghĩa vụ đối với Nhà nớc và phục vụ nhân dân một cách rộng
rãi và có chất lợng cao hơn.
Mặt khác, cũng có những ngành văn hoá và khoa học đứng ngoài công
việc kinh doanh song có khả năng phục vụ sự nghiệp kinh doanh bằng các công
trình nghiên cứu khoa học và những hoạt động chuyên môn của mình. Ví dụ nh
các ngành kinh tế học, xã hội học, tâm lý học, giáo dục và đào tạo, các phơng
tiện truyền thông đại chúng. Tại các nớc công nghiệp phát triển đã có rất nhiều
công trình khoa học nghiên cứu về các công ty, xí nghiệp, các tập đoàn kinh
doanh, về tiếp thị, về những lý thuyết toán học, về những đặc trng và cấu trúc
- -
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét