Thứ Tư, 22 tháng 1, 2014

Tác động của chuyển giao công nghệ quốc tế đối với nước chuyển giao.DOC

Người nhận
Không được bán
lại công nghệ.
Không được chuyển
nhượng dưới bất kì
hình thức nào.
Có thể bán lại.
Giá cả Thấp. Khá cao. Rất cao.
II-TÁC ĐỘNG CỦA CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ ĐỐI VỚI NƯỚC
CHUYỂN GIAO.
Ngày nay, cùng với sự phát triển đến chóng mặt của khoa học công nghệ,
không ai có thể phủ nhận được tầm quan trọng của công nghệ trong sự phát triển
kinh tế. Các nhà kinh tế học trên thế giới đã phát triển một học thuyết “Total Factor
Production – TFP” trong đó coi công nghệ là một yếu tố quan trọng, nếu không nói
là qua trọng nhất, so với ba yếu tố đầu vào truyền thống của sản xuất là vốn, đất đai
và lao động. Trong khi những yêu tố đầu vào truyền thống này là hữu hạn, thì công
nghệ lại tạo ra giá trị gia tăng đáng kể cho sản phẩm. Công nghệ giờ đây không chỉ
là một công cụ lao dộng thuần túy mà nó được coi là động kực chính trong sự phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia. Theo một nghiên cứu cho thấy rằng công nghệ đóng
góp đến 60% vào sự phát triển kinh tế của Nhật Bản.Vì tầm quan trọng như thế, mà
hoạt động chuyển giao công nghệ có nhiều tác động tích cực đối với sự phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia nói chung và riêng đối với bên chuyển gia nói riêng.
1. Tác động tích cực của chuyển giao công nghệ đối với nước chuyển giao:
Trước hết, cần hiểu rằng, trong thị trường nền kinh tế thế giới, sự cạnh tranh chủ
yếu diễn ra giữa các công ty chứ không phải là sự cạnh tranh của các quốc gia. Các
công ty luôn muốn bành trướng thị trường từ quốc gia này sang quốc gia khác nhằm
nâng cao vị thế cũng như lợi nhuận của mình. Xuất phát từ sự chuyên môn hóa và
phân công lao đông trong sản xuất cũng như mong muốn nâng cao lợi thế cạnh
tranh của mình, buộc phải có quá trình chuyên giao công nghệ giữa các công ty nắm
giữ các kỹ thuật cao mà suy rông ra là sự chuyển giao công nghệ giữa các quốc gia
với nhau. Như vậy tác dụng đầu tiên của quá trình chuyển giao công nghệ đối với
nước chuyển giao là xuất phát từ lợi ích của các công ty của các quốc gia này. Tác
động này được xét dưới hai chiến lược sản xuất của các công ty, tập toàn đa quốc
gia:
+ Sản xuất tập trung: sản xuất tại một quốc gia, sau đó xuất khẩu sang các
quốc gia khác. Do tính quy mô của dự án sản xuất quá lớn, đồng thời quá trình
R&D phải đi kèm với quá trình sản xuất mới đem lại hiểu quả cao cho nên các bí
quyết độc đáo để sản xuất ra sản phẩm thường không phải la sản phẩm để chuyển
giao công nghệ. Trong trường hợp này các công ty vẫn phải chuyển giao công nghệ
cho các chi nhánh và cho khách hang ở các quốc gia khác trong công đoạn lắp đặt,
chảy thử, bảo hành, bảo trì hay sửa chữa nhằm giữ uy tín cho sản phẩm của mình,
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
5
đảm bảo cam kết với khách hàng cũng như hỗ trợ tiếp thị. Điển hình cho loại chiến
lược này này là Microsoft, Coca-cola hoặc các sản phẩm về công nghiệp vũ trụ.
+ Sản xuất phân tán: đặt nhiều cơ sở sản xuất ở các vị trí gần nguồn tài
nghuyên, nguyên nhiên liệu hoặc là gang thị trường tiêu thụ hoặc chia quá trình sản
xuất ra một sản phẩm thành nhiều công đoạn ở các nước khác nhau nhằm nâng cao
được lợi thế trong cạnh về các mặt sau:
• Tận dụng được nguồn nhân công rẻ ở các nước đang phát triển.
• Giảm được chi phí đáng kể chi phí vận tải, tồn kho, cung ứng nghuyên nhiên
liệu.
• Giảm chi phí đầu tư do chuyên môn hóa, phân công công lao động quốc tế.
• Tích lũy được nhiều kinh nghiệm ở các quốc gia khác nhau.
• Một hình thức mở rộng thị trường, đối phó với các chính sách hạn chế nhập
khẩu của các nước có thị trường tiêu thụ.
• Tạo điều kiện chiếm lĩnh thị trường dễ dàng
• Khuyếch trương phạm vi ảnh hưởng, nâng cao uy tín sản phẩm của mình
trên thị trường thế giới.
- Hiện nay ở các nước tư bản chủ nghĩa người ta cho rằng buôn bán licence
( hay gọi là chuyển giao công nghệ) là một trong những nghiệp vụ kinh tế đối ngoại
có lãi nhất. trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt toàn cầu, khoa học kỹ thuật công nghệ
ngày càng phát triển các công ty xuyên quốc gia luôn luôn liên tục đầu tư chi phí rất
lớn cho hoạt động R&D, nghĩa là phải luôn thay thế các công nghệ cũ bằng công
nghệ mới hay hơn. Tuy nhiên do sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển
công nghệ sản xuất ở các quốc gia, công nghệ cũ ở các quốc gia phát triển lại có ích
cho các quốc gia đang phát triển và kém phát triển. do vậy nếu bỏ đi các công nghệ
này sẽ là một sự lãng phí rất lớn. mong muốn chuyển giao công nghệ sang các nước
khác là tất yếu để có thể tiếp tục thu các nguồn lợi tứ những công nghệ đáng lẽ phải
bỏ, đặc biệt đây lại là một nguồn thu rất lớn cho các nước chuyển giao.
• Theo ước tính của Mỹ, khoản thu từ chuyển nhượng licence đã lên đến 100
tỷ USD năm 2000, hay chỉ riêng công ty IBM đã thu được 1,5 tỷ USD từ
chuyển nhượng licence trong vài năm gần đây.
• Một số liệu cũ để tham khảo về thu nhập từ buôn bán licence:
1975 1984 1985
Mỹ 4615
Anh 608 1203 1127
Tây Đức 361 612 574
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
6
Pháp 191 496 426
Italia 71
Nhật 185
( Đơn vị: triệu USD)

- Thu nhập từ hoạt động mua bán licence của Colombia cũng khá cao ( có thể
tham khảo biểu đồ ở phần phụ lục trang
- Bằng những ràng buộc ký kết hợp đồng licence (CGCN), hoặc thanh toán
bằng trái phiếu, cổ phần của công ty mua, bên chuyển nhượng kỹ thuật, công
nghệ sẽ từng bước thiết lập sự kiểm tra của mình đối với các công ty, cũng
như quốc gia nhận chuyển giao công nghệ. Ngoài ra, khi thực hiện quá trình
chuyển giao công nghệ, bên chuyển giao sẽ có một số ưu đãi nhất định trong
cam kết với nước chuyển giao:
+ Bắt buộc bên mua côngn ghệ phải mua kèm một số công nghệ khác có
liên quan (Tie-ins). Điều này nghĩa là, để có thể vận hành được máy móc thiết bị
theo công nghệ đã được chuyển giao, bên mua công nghệ bắt buộc mua máy móc
thiết bị, nguyên vật liệu, bán thành phẩm, linh kiện… của bên bán licence hoặc là từ
các nguồn khác do bên chuyển giao chỉ định, trong khi người mua công nghệ có thể
tìm được nguồn hàng rẻ hơn. Như thế nghĩa là, bên chuyển giao đã kiếm them được
một phần thu nhập ngoài phần thu nhập chính từ hoạt động chuyển giao công nghệ.
Khoản thu nhập còn dược tăng lên ở chỗ bên nhận công nghệ còn phải trả phí trong
các dịch vụ bảo hành, sửa chửa, kiểm định chất lượng, tiếp thị cũng như cung cấp
thông tin.
+ Bắt buộc bên mua công nghệ không được mua của người khác (Tie-outs).
Một khi đã mua từ một nguồn thì bên mua công nghệ bị rang buộc chỉ sử dụng công
nghệ đó, không được phép ( hoặc được phép nhưng thực chất là không thể) mua
một công nghệ tương tụ hoặc bổ sung từ nguồn khác. Vô hình chung, bên chuyển
giao công nghệ đã tạo được một sự kiểm soát trong lĩnh vực công nghệ đó đối với
nước chuyển giao.
+ Bắt buộc người mua phải cung cấp miễn phí mọi thông tin, mọi ý tưởng
cũng như giải pháp về cải tiến, đổi mới công nghệ cho mình( người bán).
- Trong dây chuyền phân công lao động quốc tế như ngày nay, không thể
một quốc gia nào đi vào mọi lĩnh lực của công nghệ mà phải tập trung
vào lĩnh vực nào đó mà mình có thế mạnh. Thực tế cho thấy rằng ở
những nước có hoạt động nghiên cứu công nghệ càng phát triển thì hoạt
động áp dụng công nghệ vào thực tiển lại không mấy phát triển bằng các
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
7
quốc gia khác và ngược lại. Như vậy chuyển giao công nghệ không chỉ
có ý nghĩa về mặt kinh tế mà nó còn thúc đảy sự phát triển của khoa học
kỹ thuật. Hoạt đông chuyển giao công nghệ có tác dụng cải tiến và thích
ững kỹ thuật với điều kiện địa phương thong qua các thông tin phản hồi.
Trên thực tế hiện nay các nhà khoa học ở nhiều nước đã cùng bắt tay hợp
tác về cùng một lĩnh vực nào đó, nhiều diễn đàn khoa học mang tính
quốc tế đã được tổ chức, đồng thời cũng góp phần thúc đẩy sự phát trine
kinh tế thế giới.
- Mặt khác các nước phát triển (đa phần các nước chuyển giao công nghệ)
phải thừa nhận rằng, rốt cuộc họ không thể duy trì sự giàu có của họ, nếu
đại đa số bộ phận trên thế giới nghèo nàn lạc hậu. Các vấn đề khó khăn
về kinh tế sẽ gây nên sự mất ổn định về chính trị quốc tế. Thông qua hoạt
động chuyên giao công nghệ, các nước đang phát triển ( thường là những
nước nhận chuyển giao) tăng cường phát triển kinh tế . cũng sẽ đem lại
lợi ích cho các nước chuyển giao nhờ có được một số lượng lớn khách
hang từ những nước nhận chuyển giao mua hàng hóa công nghiệp, và
hàng tiêu dùng từ nước mình. Người ta ước tính được rằng cứ 3% tăng
trưởng của những nước đang phát triển sẽ dẫn đến 1% tăng trưởng cho
nền kinh tế ở nhũng nước phát triển- đa phần là những nước chuyển giao
công nghệ.
2. Tác động tiêu cực của việc chuyển giao công nghệ đối với nước chuyển
giao:
Chuyển giao công nghệ không chỉ có những lợi ích thiết thực mà nó còn chứa
những “rủi ro” tiềm ẩn đối với nước chuyển giao công nghệ. Chính vì vậy, để tránh
vấp phải những sai lầm trong chuyển giao công nghệ quốc tế, chúng ta sẽ đi tìm
hiểu những rủi ro đối với bên chuyển giao trong hoạt động chuyển giao công nghệ.
2.1. Tạo ra đối thủ cạnh tranh cho chính mình (hiệu ứng Bumerang) :
Chuyển giao công nghệ giúp nâng cao năng lực công nghệ cho người mua trong
cùng 1 ngành công nghiệp với người bán. Rõ ràng người bán càng hoàn thành tốt
cam kết chuyển giao công nghệ với người mua bao nhiêu thì càng làm tăng thêm
khả năng cạnh tranh của người mua với chính mình bấy nhiêu. (Mặc dù theo Porter,
có 2 loại đối thủ cạnh tranh: đối thủ “tốt” – good competitor, và đối thủ “xấu” – bad
competitor. Tạo ra đối thủ tốt sẽ có lợi cho người bán công nghệ vì có động lực để
vươn lên, cùng nhau khuếch trương sản phẩm, có “sân sau” để thải công nghệ lạc
hậu khi cần thiết…chỉ có điều đáng tiếc là phân biệt giữa các đối thủ tốt và các đối
thủ xấu chẳng bao giờ là rõ ràng và càng không phải là bất biến! ).
Tạo ra đối thủ cạnh tranh cho chính mình là “bài học” đắt giá cho nhiều công ty
của Nhật và Mỹ khi chuyển giao công nghệ cho Hàn Quốc, Đài Loan trong lĩnh vực
điện tử. Các công ty SamSung, Daewoo, Acer… sau khi nhận được công nghệ (dù
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
8
chưa phải là tiên tiến nhất) đã quay trở lại cạnh tranh với “chính quốc” trên thị
trường hàng điện tử dân dụng bằng cách đưa ra những sản phẩm có giá hạ hơn mà
chất lượng không thua kém là bao.
Tập đoàn điện tử SamSung là một ví dụ điển hình của các trường hợp kiểu này.
+ Theo những số liệu thống kê gần nhất thì hãng Samsung của Hàn Quốc đã
vượt lên trên Motorola tại thị trường Mỹ về thiết bị điện tử cầm tay quý 3 năm
2008.
Biểu đồ về thị phần thiết bị điện tử cầm tay ở Mỹ:
+ Samsung cũng đã vượt Sony và đang giãn dần khoảng cách với Sony trong
cuộc cạnh tranh giành vị trí số 1 trên thị trường ti-vi kỹ thuật số Mỹ. Samsung
chiếm khoảng 26,7% thị phần TV kỹ thuật số Mỹ trong 11 tháng đầu năm 2008, tiếp
theo là Sony (14,8%), Panasonic (7,2%), Toshiba (6,8%) và LG Electronics (6,7%).
Theo ước tính của hãng nghiên cứu thị trường NPD, Samsung đã mở rộng
khoảng cách với Sony đến 11,9 phần trăm vào cuối tháng 11 năm 2008.
Trong năm 2007, khoảng cách là 6,3 phần trăm, tăng 2,8 phần trăm của năm
2006.
Samsung hy vọng sẽ dẫn đầu thị trường ti-vi kỹ thuật số Mỹ trong 3 năm tới.

Bên cạnh Samsung, công ty điện tử Acer của Đài Loan cũng đã rất thành công
sau khi nhận được công nghệ chuyển giao từ các công ty Hoa Kì, Nhật Bản. Nổi
tiếng với các dòng điện tử giá rẻ, đặc biệt là Notebook, Acer đã lớn mạnh nhanh
chóng trong những năm gần đây. Theo số liệu thống kê gần đây của hãng nghiên
cứu thị trường iSuppli cho biết hiện tại Acer đã lần lượt vượt mặt các “đại gia” điện
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
9
tử Mĩ, Nhật như Dell, Toshiaba, IBM…để trở thành hãng Notebook lớn thứ 2 thế
giới với thị phần toàn cầu lên tới 15,63% (đứng đầu là hãng máy tính HP với thị
phần 19.3%). Điều đáng chú ý ở đây là một năm trước khoảng cách giữa Acer và
Dell lên tới hơn 4%. Thương hiệu máy tính Đài Loan đã đạt được tốc độ tăng
trưởng mạnh nhất trong nhóm các "đại gia" đầu bảng - 68% so với cùng kỳ năm
trước. Riêng trong thị trường Netbook (dòng máy tính Notebook nhỏ gọn), tính đến
hết quý III năm 2008, Acer đang dẫn đầu thị trường với thị phần lên tới 38,3%, vượt
qua và bỏ xa hãng sản xuất netbook hàng đầu hiện nay Asus tới 8%. Dưới đây là
bảng số liệu thị phần trong thị trường Netbook toàn cầu ba quý đầu năm 2008
(Nguồn: Công ty nghiên cứu thị trường DisplaySearch).
Tại thị trường Việt Nam, Acer liên tiếp khẳng định vị trí “Thương hiệu máy tính
xách tay số 1” trong hai năm 2006 – 2007 theo đánh giá của Tập đoàn Nghiên cứu
thị trường Gfk, căn cứ trên số lượng máy tính xách tay được tiêu thụ trong nước.
Trong những trường hợp tương tự đối với các công ty chuyển giao công nghệ,
việc thu được một khoản chi phí từ Chuyển giao công nghệ (royalty) không so sánh
được việc bị mất thị trường. Hơn nữa, các công ty nhận công nghệ do làm ăn có lãi,
có tiềm lực và tài chính đã kịp phát triển năng lực R&D của chính mình (thu hút
nhân tài, mua thiết bị thí nghiệm hiện đại, mua patent chứ không mua license công
nghệ…), có thể sáng tạo ra công nghệ mới và tích cực cạnh tranh trên thị trường
hàng công nghệ cao.
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
10
Điều đáng nói là, các nước mới bước vào quá trình công nghiệp hóa mong muốn
lặp lại thành công của những “con rồng” Châu Á sẽ gặp rất nhiều khó khăn, là vì:
• Các công ty của các nước phát triển ngày càng trở nên thận trọng hơn trong
khi phải bộc lộ bí quyết công nghệ cao cấp của mình;
• Khoảng cách về công nghệ ngày nay đã trở nên quá rộng so với những năm
60-70, chiến lược đi lên từng bước mà các nước đã làm là “nhập khẩu, cải
tiến, bắt kịp” trong nhiều trường hợp không còn thích hợp nữa.
Cách khả dĩ là “nhảy cóc công nghệ - leapfrogging”, liên tục chuyển từ công
nghệ này sang công nghệ khác cao hơn, đi thẳng vào những công nghệ tiên tiến
nhất. Một trong những giải pháp hữu hiệu để có thể nâng cao năng lực R&D- nhân
tố quyết định sự thành bại của sách lược “đi tắt đón đầu”, là phải chú trọng phát
triển nguồn lực con người, coi đó là “yếu tố hàm chứa công nghệ” quan trọng bậc
nhất đối với các nước đang phát triển- những công nghệ “thâm dụng trí thức” trong
thời đại hiện nay.
Cũng cần lưu ý rằng bản thân các nước đang phát triển cũng có những công
nghệ truyền thống, đặc thù cần bảo vệ và phát huy, do đó càng phải thận trọng khi
chuyển giao công nghệ cho người khác.
2.2. Một số rủi ro khác ở các nước đang phát triển đối với người chuyển
giao:
• Không nắm được thông tin đầy đủ về thị trường và về đối tác địa phương.
Từ đó dẫn đến việc dễ vướng mắc những sai lầm trong đầu tư như đầu tư
vào những nơi có môi trường kinh doanh không ổn định, độ rủi ro trong đầu
tư cao. Hoặc ngay cả trong việc mua bán license thuần túy thì việc nắm bắt
thông tin đầy đủ về thị trường cũng rất có ích. Giúp bên chuyển giao công
nghệ tránh được việc bán với mức giá thấp hơn rất nhiều so với những giá trị
mà bên nhận công nghệ chuyển giao sẽ thu được trong tương lai;
• Không đảm bảo sự bảo hộ, bảo vệ thích đáng với các quyền sở hữu công
nghiệp, bản quyền (nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, phần mềm
máy tính…). Ở những nước mà còn xem nhẹ vấn đề bản quyền thì bên
chuyển giao cần xem xét cặn kẽ trong việc quyết định chuyển giao công
nghệ để tránh tình trạng không thực hiện đúng những điều khoản trong hợp
đồng chuyển giao công nghệ;
• Cơ sở hạ tầng về R&D vừa thiếu vừa yếum, vừa phân tán hoặc chỉ tập trung
vào một số lãnh vực do nhà nước quản lý gây khó khăn cho việc phát huy
tính tích cực của công nghệ được chuyển giao, vốn đầu tư…
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
11
• Thiếu nguồn nhân lực được đào tạo thích đáng. Từ đó sẽ gây khó khăn trong
công tác quản lý, giám sát…
• Bảo hộ quá đáng hàng trong nước, có chính sách phân biệt đối xử sẽ tạo nên
những rào cản cho các công ty nhận công nghệ chuyển giao;
• Hy vọng quá cao của đối tác và chính quyền nước sở tại….
IV- TÌNH HÌNH CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM TRONG
NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
Như đã nêu ở mục trên, hoạt động chuyển giao công nghệ quốc tế không chỉ có
những tác dụng tích cực và nó còn chứa một số “rủi ro” tiềm tàng đối với các nước
chuyển giao công nghệ. Tuy vậy chúng ta cũng không thể phủ nhận được những lợi
ích to lớn mà chuyển giao công nghệ mang lại cho các nước chuyển giao. Việt Nam
là một quốc gia đang phát triển khá năng động ở khu vực Đông Nam Á với một thị
trường đầy tiềm năng, nguồn lao động rẻ cũng như nguồn nguyên nhiên vật liệu dồi
dào, nên luôn nhận được sự quan tâm của các nước phát triển, những quốc gia có
tiềm lực về công nghệ cao. Bên cạnh đó, tuy còn là một nước đang phát triển và
đang hội nhập dần vào sân chơi quốc tế, Việt Nam cũng đã bắt đầu tham gia vào
hoạt động chuyển giao công nghệ trong một số lĩnh vực nhất định mà đặc biệt là các
lĩnh vực nông nghiệp và năng lượng. Vì vậy trong mục này chúng tôi sẽ xét về hai
khía cạnh trong hoạt động chuyển giao công nghệ những năm gần đây ở Việt Nam,
đó là hoạt động tiếp nhận chuyển giao công nghệ vào Việt Nam và hoạt động
chuyển giao công nghệ ra nước ngoài.
1. Hoạt động tiếp nhận chuyển giao công nghệ của Việt Nam.
Trong khoảng hơn 20 năm qua kể từ khi Việt Nam bắt đầu tiến hành Đổi mới,
“mở cửa” nền kinh tế và đặc biệt là kể từ khi Việt Nam chính thức gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO), hoạt động chuyển giao công nghệ nước ngoài
vào Việt Nam đã diễn ra hết sức sôi động và đa dạng theo đúng nghĩa của nó. Nhìn
chung, công nghệ nước ngoài chuyển giao vào Việt Nam chủ yếu theo 3 luồng
chính: Chuyển giao công nghệ qua nhập cư của các chuyên gia, chuyển giao công
nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và chuyển giao công nghệ theo
các hợp đồng mua bán “thuần túy”.
1.1. Chuyển giao công nghệ qua nhập cư của các chuyên gia.
Đây là loại chuyển giao công nghệ vô hình hầu như không thông qua các hợp
đồng thương mại nên bên nhận không chịu những ràng buộc do bên giao hoặc do
chính phủ nước bên chuyển giao áp đặt. Bằng luồng chuyển giao này chúng ta có
khả năng nhận được những công nghệ cần thiết trong khoảng thời gian ngắn nhất
với giá rẻ mà chúng ta không thể nào đạt được bằng các luồng chuyển giao công
nghệ khác. Việt Nam là một nước có tiềm năng rất lớn trong luồng chuyển giao
công nghệ này. Theo thống kê, hiện nay ngoài Việt Nam có khoảng hơn 3 triệu Việt
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
12
kiều sinh sống trên hơn 100 quốc gia trên thế giới, trong đó có khoảng hơn 1,5 triệu
người sống tại Hoa Kỳ, hơn 250.000 người sinh sống tại Pháp và 180.000 người
sinh sống tại Úc…Đa số Việt kiều đã định cư ở nước ngoài và có nhiều người đã
trở thành các chuyên gia có trình độ khá cao. Tuy vậy hiện nay thực trạng chuyển
giao công nghệ trong luồng này lại không đáng kể so với tiềm năng do nhiều lí do
mà trước hết là cơ chế, chính sách chưa hợp lí, thiếu đồng bộ trong việc thu hút
nguồn lực quan trọng này.
1.2. Chuyển giao công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Đây là luồng chuyển giao công nghệ chính từ nước ngoài vào Việt Nam. Theo
Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung Ương thì có đến 90% hợp đồng chuyển
giao công nghệ là vào các doanh nghiệp FDI. Ưu điểm rõ rệt của luồng chuyển giao
này là vốn để thực hiện các công nghệ được chuyển giao chủ yếu là vốn của các nhà
đầu tư nước ngoài. Do đó, quy mô của luồng này tùy thuộc vào cơ hội và môi
trường đầu tư tại Việt Nam hơn là phụ thuộc vào khả năng tài chính của các doanh
nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, công nghệ được chuyển giao trong luồng này thường là
các công nghệ khá tiên tiến so thế giới. Chính vì những ưu điểm của luồng chuyển
giao công nghệ này, việc thu hút các doanh ngiệp FDI luôn được Chính phủ tập
trung quan tâm. Cùng với việc tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý và đơn giản
hoá các thủ tục hành chính nhằm tăng thêm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt
Nam, trong thời gianqua, Chính phủ đã tập trung thực hiện một số giải pháp như cải
thiện cơ sở hạ tầng, đào tào nguồn nhân lực…Vì vậy Việt Nam đã thu được những
thành tựu to lớn trong thu hút nguồn vốn FDI. Nếu năm 2007, Việt Nam thu hút
được 22 tỉ USD vốn FDI đăng kí, tăng hơn 2 lần so với năm 2006 ( vốn FDI đăng kí
năm 2006 đạt 10,2 tỉ USD), thì đến năm 2008 tổng vốn FDI đăng kí đã đạt trên 64
tỷ USD, gấp gần ba lần năm 2007. Những con số trên là những kết quả rất đáng ghi
nhận cho nỗ lực thu hút FDI của Việt Nam.
Dưới đây là biểu đồ tăng trưởng trong thu hút FDI vào Việt Nam trong giai đoạn
2002-2008 ( đơn vị tỉ USD) ( Số liệu tổng hợp).
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
13
1.4
3.1
4.2
5.8
10.2
22
64
0
10
20
30
40
50
60
70
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Nhìn từ biểu đồ trên cho thấy Việt Nam là điểm đầu tư hấp dẫn trong mắt các
nhà đầu tư nước ngoài và các nguồn vốn FDI từ các nước phát triển đổ vào Việt
Nam sẽ tạo tiền đề cho khoa học công nghệ trong nước sẽ phát triển mạnh mẽ trong
tương lai.
1.3. Chuyển giao công nghệ theo các hợp đồng mua bán “thuần túy”.
Đây là luồng chuyển giao công nghệ điển hình nhất vì lợi ích trước mắt cũng
như lâu dài của bên nhận chuyển giao công nghệ được đảm bảo tốt nhất. Trên thực
tế, luồng chuyển giao công nghệ này đã hình thành lâu ở Việt Nam kể từ khi Miền
Bắc được giải phóng cho đến năm 1987. Nói chung các trường hợp này hầu hết là
nhập kĩ thuật từ nước ngoài ( chủ yếu là Liên Xô, Đông Âu, Trung Quốc, Ấn Độ và
một số nước khác) với vốn sử dụng hầu hết là vốn viện trợ ( vốn vay ưu đãi hoặc
vốn viện trợ không hoàn lại). Tuy vậy do những nhận thức sai lầm trong quan niệm
Tiểu luận Quan hệ kinh tế quốc tế
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét