Cổ phần hoá DNNN ở Việt NamNguyễn Văn Nghiệp
PHẦN THỨ NHẤT
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CỔ PHẦN HOÁ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI
TIẾN HÀNH CỔ PHẦN HOÁ Ở VIỆT NAM
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ
CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1. Khái niệm và đặc điểm của công ty Cổ phần
1.1.1. Quan niệm về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước:
Cho đến nay, trong nền kinh tế thị trường , vai trò của Nhà nước đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội là không thể phủ nhận. Khi nền kinh tế thị trường
phát triển kéo theo hạn chế là sự cạnh tranh khốc liệt và bất bình về mặt xã
hội tăng lên . Để giảm bớt và kìm hãm những hạn chế trên, đồng thời thực
hiện chức năng quản lý của mình, Nhà nước sử dụng một công cụ hữu hiệu là
bộ phận kinh tế Nhà nước, mà trung tâm là các doanh nghiệp Nhà nước.
Nhưng việc lạm dụng quá mức sự can thiệp của khu vực kinh tế Nhà nước sẽ
kìm hãm sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Từ đó vấn đề đặt ra là
phải làm thế nào để vừa phát triển kinh tế, vừa phát triển xã hội đồng thời
vai trò quản lý của Nhà nước vẫn được giữ vững.
Một hiện tượng kinh tế nổi bật trên toàn thế giới trong những năm 1980
là sự chuyển đổi sở hữu Nhà nước : Chỉ tính từ năm 1984 đễn năm 1991, trên
toàn thế giới đã có trên 250 tỷ USD tài sản Nhà nước được đem bán. Chỉ
riêng năn 1991 chiếm khoảng 50 tỷ USD. Đến nay đã có hàng trăm nước phát
triển trên thể giới ( cho dù có tư tưởng chính trị khác nhau ) đều xây dựng và
thực hiện cổ phần hoá một cách tích cực. Do đó, hơn một thập kỷ qua, việc cổ
phần hoá được coi như là một giải pháp hữu hiệu để khắc phục sự yếu kém
trong kinh doanh của bộ phận doanh nghiệp Nhà nước. Vậy cổ phần hoá là
gì, vai trò, đặc điểm của nó ra sao, mà nhiều nước trên thế giới sử dụng nó
trong công tác quản lý kinh tế như vậy?
Theo tài liệu của hầu hết các học giả nước ngoài thì việc xem xét vấn đề
cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đều đặt nó trong một quá trình rộng lớn
5
Cổ phần hoá DNNN ở Việt NamNguyễn Văn Nghiệp
hơn đó là quá trình Tư nhân hoá. Tư nhân hoá theo như định nghĩa của Liên
Hợp Quốc là sự biến đổi tương quan giũa Nhà nước và thị trường trong đời
sống kinh tế của một nước ưu tiên thị trường. Theo cách hiểu này thì toàn bộ
các chính sách, thể chế, luật lệ nhằm khuyến khích, mở rộng, phát triển khu
vực kinh tế tư nhân hay các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, giảm bớt
quyền sở hữu và sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào các hoạt động kinh
doanh của các đơn vị kinh tế tế cơ sở, giành cho thị trường vai trò điều tiết
hoạt động sản xuất kinh doanh đáng kể thông qua tự do hoá giá cả, tự do lựa
chọn đối tác và nghành nghề kinh doanh.
Xét về mặt hình thức, thì cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà
nước là việc Nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị tài sản
của mình cho các cá nhân hay tổ chức kinh tế trong hoặc ngoài
nước, hoặc bán trực tiếp cho cán bộ, công nhân của chính doanh
nghiệp Nhà nước thông qua đấu thầu công khai , hay thông qua thị
trường chứng khoán để hình thành lên các Công ty TNHH hay
Công ty Cổ phần
Như vậy cổ phần hoá chính là phương thức thực hiện xã hội
hoá sở hữu – chuyển hình thức kinh doanh từ một chủ sở hữu là
doanh nghiệp Nhà nước thành công ty Cổ phần với nhiều chủ sở
hữu để tạo ra một mô hình doanh nghiệp phù hợp với nền kinh tế
thị trường và đáp ứng được nhu cầu của kinh doanh hiện đại.
1.1.2. Khái niệm:
Từ quan niệm trên, kết hợp với điều kiện cụ thể ở nước ta, có
thể đưa ra khái niệm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là việc
chuyển doanh nghiệp mà chủ sở hữu là Nhà nước (doanh nghiệp
đơn sở hữu) thành công ty cổ phần (doanh nghiệp đa sở hữu) ,
chuyển doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo Luật doanh nghiệp
Nhà nước sang hoạt động theo các quy định về công ty cổ phần
trong Luật Doanh nghiệp.
6
Cổ phần hoá DNNN ở Việt NamNguyễn Văn Nghiệp
Từ nghị quyết của Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng
khoá VII (6/1992), tiếp theo đó là quyết định số 202/CT(6/1992)
của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ),
rồi tới các nghị định số 28/CP(7/5/1996), 25/CP(23/7/1997) và
nghị định 44/CP(29/6/1998), cổ phần hoá luôn được Đảng và Nhà
nước xác định là việc chuyển các doanh nghiệp Nhà nước thành
các Công ty cổ phần nhằm thực hiện các mục tiêu:
Chuyển một phần sở hữu Nhà nước sang sở hữu hỗn hợp
Huy động vốn của toàn xã hội
Tạo điều kiện để người lao động trở thành người chủ thực
sự trong doanh nghiệp
Thay đổi phương thức quản lý trong doanh nghiệp
Như vậy có thể thấy: so với các nước đã và đang tiến hành Cổ
phần hoá trên thế giới, thì ở nước ta, chủ trương Cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nước lại xuất phát từ đường lối kinh tế và đặc
điểm kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay: chúng ta đang bố trí
lại cơ cấu kinh tế và chuyển đổi cơ chế quản lý cho phù hợp với
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản của Nhà nước. Đó là đặc điểm lớn nhất chi
phối, quyết định mục đích nội dung và phương thức Cổ phần hoá
doanh nghiệp Nhà nước . Vì vậy về thực chất Cổ phần hoá ở nước
ta là nhằm sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước cho hợp lý và hiệu
quả, còn việc chuyển đổi sở hữu của Nhà nước thành sở hữu của
các cổ đông trong công ty cổ phần chỉ là một trong những phương
tiện quan trọng để thực hiện mục đích trên.
1.2. Đặc điểm của Cổ phần hoá và của công ty Cổ phần
1.2.1. Đặc điểm của cổ phần hoá
Chúng ta đều biết rằng cái cốt lõi của quá trình Cổ phần hoá
là vấn đề sở hữu và quyền sở hữu. Còn Cổ phần hoá doanh nghiệp
7
Cổ phần hoá DNNN ở Việt NamNguyễn Văn Nghiệp
Nhà nước là chuyển đổi sở hữu trong doanh nghiệp Nhà nước. Sở
hữu theo quan niệm của chủ nghĩa Mác là quan hệ giữa lao động
với những điều kiện khách quan của lao động, đây là một phạm trù
cơ bản bao trùm của quan hệ sản xuất , nó phản ánh lao động tổng
thể của con người và những mối quan hệ của họ trong việc chiếm
hữu những điều kiện khách quan phục vụ cho lơị ích của con
người và sự phát triển xã hội.
Thông qua việc phân tích mối quan hệ bản chất của sở hữu ta
thấy hiện rõ hai nội dung cơ bản của sở hữu là : sở hữu xã hội và
chiếm hữu tư nhân . Trong đó sở hữu xã hội dùng để chỉ quan hệ
lao động trừu tượng với toàn bộ các điều kiện khách quan trực tiếp
của lao động. Giữa sở hữu xã hội và chiếm hữu tư nhân có mối
quan hệ biện chứng, vừa thống nhất vừa tách biệt. Sở hữu xã hội
có hình thái vận động là giá trị mà sự biểu hiện của nó chủ yếu
dưới hình thức tiền tệ, còn chiếm hữu ta nhân luôn được thực hiện
dưới dạng hoạt động cụ thể , có ích trong hệ thống phân công lao
động xã hội mà sản phẩm của nó thể hiện dưới dạng một hàng hoá
hay một loại dịch vụ nhất định . Hệ quả của sự thống nhất và tách
rời giữa sở hữu xã hội và chiếm hữu tư nhân dẫn đến sự phân biệt
giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản xã hội . Người có
quyền sở hữu sẽ nắm quyền chi phối giá trị , nhằm mục đích tìm
kiếm một giá trị cao hơn còn người có quyền sử dụng là người
trực tiép thực hiện một hoạt động kinh tế cụ thể nào đó để tạo ra
giá trị, đó là phương tiện để tăng giá trị . mối quan hệ của chúng
có thể hiểu là mối quan hệ giữa mục đích và phương tiện. Chính
sự tách biệt của sở hữu xã hội và chiếm hữu xã hội đã tạo ra các
tầng lớp người trong xã hội .
Việc vạch ra tính chất của sở hữu là một việc vô cùng quan
trọng để hiểu được sự vận động của nó trong nền kinh tế thị
8
Cổ phần hoá DNNN ở Việt NamNguyễn Văn Nghiệp
trường. Sự tách biệt giữa hai mặt của sở hữu là một quá trình lịch
sử góp phần cho sự ra đời, sự phát triển của thị trường chứng
khoán và của công ty Cổ phần .
1.2.2. Đặc điểm của công ty cổ phần
- Xét về mặt pháp lý : công ty Cổ phần là một tổ chức kinh
doanh có tư cách pháp nhân độc lập, được hưởng quy chế pháp lý
của Nhà nước, có tư cách bên nguyên để kiện các pháp nhân khác
đồng thời cũng có thể bị các pháp nhân khác kiện. Công ty Cổ
phần có vốn kinh doanh do nhiều người đóng góp dưới hình thức
cổ phần. Các cổ đông trong công ty chỉ phải chịu trách nhiệm về
các khoản nợ của công ty trong phạm vị vốn góp của mình cho
công ty chứ không chịu trách nhiệm vô hạn như hình thức kinh
doanh một chủ hay hình thức kinh doanh chung vốn. Nhờ đó mà
khả năng thu hút vốn đầu tư và khả năng mạo hiểm cao hơn. Công
ty Cổ phần là một hình thái pháp lý gần nh hoàn hảo trong việc
huy động những lượng vốn lớn trong xã hội. Mệnh giá của cổ
phiếu trong công ty Cổ phần thưòng được định giá thấp để có thể
huy động, khai thác ngay cả số tiền tiết kiệm nhỏ nhất trong công
chúng.
- Xét về mặt huy động vốn : thì công ty Cổ phần giải quyết
hết sức thành công vì nó tạo điều kiện cho những cá nhân với số
tiền nhỏ cũng có cơ hội đầu tư có lợi và an toàn, bởi vì: Việc mua
cổ phiếu không những đem lại cho cổ đông lợi tức cổ phần , mà
còn hứa hẹn mang đến cho họ một khoản thu nhập “ngầm” nhờ sự
tăng giá trị của cổ phiếu khi công ty làm ăn có hiệu quả. Mặt khác
các cổ đông có quyền tham gia quản lý công ty theo điều lệ của
công ty Cổ phần và được pháp luật bảo đảm. Điều lợi nữa là các
cổ đông được hưởng ưu đãi trong việc mua những cổ phiếu mới
9
Cổ phần hoá DNNN ở Việt NamNguyễn Văn Nghiệp
phát hành của công ty trước khi công ty đem bán rộng rãi cho
công chúng.
Một đặc điểm về vốn của công ty Cổ phần nữa là sự linh hoạt
trong việc chuyển nhượng, mua bán những cổ phiếu tự do. Như
vậy sẽ chẳng khó khăn gì cho những người muốn rút vốn kinh
doanh hay muốn tham gia kinh doanh thêm trong công ty Cổ phần.
Nghĩa là việc chuyển từ sở hữu này sang sở hữu khác diễn ra rất
mau lẹ mà guồng máy của công ty vẫn có thể hoạt động bình
thường. Cổ tức của công ty Cổ phần không những là mối quan
tâm của các cổ đông trong công ty Cổ phần, mà còn có tác động
rất lớn đến giá trị giao dịch cổ phiếu của Thị trường chứng khoán
bởi tâm lý những người góp vốn cổ phần thường muốn thu được
lợi tức cổ phần cao hơn lãi suất trên thị trường vốn.
- Xét về mặt sở hữu: công ty Cổ phần có nhiều chủ sở hữu,
chủ sở hữu của công ty Cổ phần là các cổ đông , song phần lớn
các cổ đông của công ty Cổ phần không tham gia vào quản lý công
ty mà giao quyền điều hành và quản lý công ty cho một bộ phận
nhỏ đó là Hội đồng quản trị . Các chủ sở hữu khác chỉ thực hiện
quyền sở hữu của mình trên phương diện thu lợi tức cổ phần thông
qua hoạt động kinh doanh của công ty; tham gia Đại hội đồng cổ
đông, quyết định những vấn đề có tính chiến lược của công ty như
thông qua điều lệ, phương án xây dựng công ty, quyết toán tài
chính, giải thể, bầu cử và ứng cử vào bộ máy lãnh đạo của công
ty.
1.3. Nội dung của cổ phần hoá:
Với mục tiêu như :
- Chuyển một phần sở hữu Nhà nước sang sở hữu hỗn hợp
- Huy động vốn của toàn xã hội
10
Cổ phần hoá DNNN ở Việt NamNguyễn Văn Nghiệp
- Tạo điều kiện để người lao động trở thành người chủ thực sự
trong doanh nghiệp
- Thay đổi phương thức quản lý trong doanh nghiệp
Thì tiến trình Cổ phần hoá đã dành được sự quan tâm đặc biệt
của Đảng, Chính phủ, các ban ngành và chính quyền địa phương.
Trong suốt hơn 10 năm thực hiện, nhiều văn bản pháp qui quy
định chi tiết nội dung cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đã
được ban hành nhằm đưa công tác Cổ phần hoá phù hợp với từng
giai đoạn. Đặc biệt Nghị định 44/CP(29/6/1998) của Chính phủ
quy định chi tiết nội dung Cổ phần hoá bao gồm: đối tượng cổ
phần hoá, hình thức cổ phần hoá, xác định giá trị doanh nghiệp,
đối tượng mua cổ phần và phân tích đánh giá thực trạng doanh
nghiệp.
1.3.1. Về đối tượng cổ phần hoá:
Xuất phát từ thể chế chính trị, lịch sử, để phù hợp với hoàn
cảnh và điều kiện kinh tế nước ta, đối tượng thực hiện cổ phần hoá
là những doanh nghiệp Nhà nước hội tụ đủ 3 điều kiện : có quy
mô vừa và nhỏ ; không thuộc diện Nhà nước giữ 100% vốn đầu tư ;
có phương án kinh doanh hiệu quả hoặc tuy trước mắt có khó khăn
nhưng triền vọng tốt.
Trong 3 điều kiện này, điều kiện thứ 2 ( doanh nghiệp không
thuộc diện Nhà nước giữ 100% vốn đầu tư ) được coi là quan
trọng nhất bởi những doanh nghiệp Nhà nước giữ 100% vốn đầu
tư là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước , là đòn bẩy kinh tế,
đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, theo đúng định hướng
XHCN.
1.3.2.Về lựa chọn hình thức tiến hành Cổ phần hóa:
Theo quy định thì có 4 hình thức Cổ phần hoá, Ban cổ phần
hoá sẽ lựa chọn một hình thức phù hợp với điều kiện cụ thể của
11
Cổ phần hoá DNNN ở Việt NamNguyễn Văn Nghiệp
doanh nghiệp và người lao động. Các hình thức đó là: giữ nguyên
giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ
phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp ; bán một phần
giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp ; tách một bộ
phận của doanh nghiệp để cổ phần hoá ; bán toàn bộ giá trị hiện
có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty
cổ phần.
1.3.3. Trên cơ sở đã lựa chọn hình thức Cổ phần hoá, khâu tiếp
theo đó là xác định giá trị doanh nghiệp:
Đây là một khâu quan trọng và thường chiếm nhiều thời gian,
công sức nhất trong quá trình Cổ phần hoá. Có 2 nguyên tắc xác
định giá trị doanh nghiệp được đưa ra, đó là:
Giá trị thực tế là giá toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp
tại thời điểm cổ phần hoá mà người mua, người bán cổ phần đều
chấp nhận được. Người mua và người bán cổ phần sẽ thoả thuận
theo nguyên tắc tự nguyện, đôi bên cùng có lợi. Tại các nước có
nền kinh tế phát triển, thoả thuận này diễn ra trên thị trường
chứng khoán, còn ở nước ta thoả thuận có thể diễn ra thông qua
các công ty môi giới, kiểm toán( đã diễn ra trên thị trường chứng
khoán nhưng chưa phổ biến). Trên cơ sở xác định được giá trị thực
tế của doanh nghiệp, giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh
nghiệp sẽ là phần còn lại của giá trị thực tế sau khi đã trừ đi các
khoản nợ phải trả.
Cơ sở xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp đó là số liệu
trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm Cổ phần hoá
và giá trị thực tế của tài sản tại doanh nghiệp được xác định trên
cơ sở hiện trạng về phẩm chất, tính năng kỹ thuật, nhu cầu sử
dụng của người mua tài sản và giá thị trường tại thời điểm Cổ
12
Cổ phần hoá DNNN ở Việt NamNguyễn Văn Nghiệp
phần hoá. Nguyên tắc này được đặt ra để đảm bảo tính khách quan
trong việc xác định giá trị doanh nghiệp.
Thực tế việc Cổ phần hoá các doanh nghiệp cho thấy, các
doanh nghiệp đăng ký Cổ phần hoá thường có xu hướng định thấp
giá trị doanh nghiệp, thông qua việc khai báo không chính xác như
khai thấp giá trị TSCĐ của doanh nghiệp, khai không đúng lượng
vốn…từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến việc định giá trị doanh nghiệp
và gây thiệt hại cho Nhà nước. Ngược lại, hiện tượng cơ quan
kiểm toán định giá cao hơn giá trị thực của doanh nghiệp lại có
thể làm thiệt hại cho người mua cổ phần.
1.3.4. Về việc xác định đối tượng mua cổ phần và cơ cấu phân chia cổ
phần:
Các đối tượng được phép mua cổ phần đó là: các tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, công dân Việt Nam, người nước ngoài định cư
ở Việt Nam trong đó cná bộ công nhân viên tại các doanh nghiệp
Nhà nước là đối tượng được ưu tiên mua cổ phần.
Về số lượng cổ phần được mua có quy định như sau:
Loại doanh nghiệp mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối, cổ
phần đặc biệt: Một pháp nhân được mua không quá 10%, một cá
nhân được mua không quá 5% tổng số cổ phần của doanh nghiệp.
Loại doanh nghiệp mà Nhà nước không nắm cổ phần chi
phối, cổ phần đặc biệt: Một pháp nhân được mua không quá 20%,
một cá nhân được mua không quá 10% tổng số cổ phần của doanh
nghiệp.
Loại doanh nghiệp Nhà nước không tham gia cổ phần:
không hạn chế số lượng cổ phần lần đầu mỗi pháp nhân và cá nhân
được mua nhưng phải đảm bảo số cổ đông tối thiểu theo đúng quy
định của Luật Doanh nghiệp.
13
Cổ phần hoá DNNN ở Việt NamNguyễn Văn Nghiệp
Trên đây là mức quy định cụ thể về đối tượng mua cũng như
mức mua cổ phần, tuy nhiên nghị định 44/CP đã có sự điều chỉnh
nhằm khuyến khích việc mua cổ phần. Cụ thể là mọi người mua cổ
phần sẽ được vay một cổ phiếu khi mua một cổ phiếu bằng tiền
mặt. Với người lao động, họ sẽ được Nhà nước bán cổ phần với
mức giá thấp hơn 30% so với giá bán cho các đối tượng khác, mỗi
năm làm việc tại doanh nghiệp được mua tối đa 10 cổ phần. Đối
với người lao động nghèo trong doanh nghiệp cổ phần hoá, ngoài
việc được mua cổ phần ưu đãi họ còn được hoãn trả tiền mua cổ
phần trong 3 năm đầu mà vẫn được hưởng cổ tức, số tiền này sẽ
trả dần trong 10 năm không phải trả lãi.
1.4.Tổ chức quản lý của công ty Cổ phần
Do tính chất có nhiều chủ sở hữu của công ty Cổ phần nên
các cổ đông không thể thực hiện trực tiếp vai trò chủ sở hữu của
mình mà phải thông qua tổ chức đại diện làm nhiệm vụ quản lý
lãnh đạo công ty đó là: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị,
Giám đốc điều hành và kiểm soát viên.
Đại hội đồng cổ đông là cơ quan lãnh đạo quyết định cao
nhất của công ty. Đại hội đồng cổ đông đại diện cho trên 3/4 số
vốn điều lệ của công ty và được thành lập theo biểu quyết của đa
số phiếu bầu. Đại hội đồng cổ đông thường kỳ triệu tập vào cuối
năm để giải quyết công việc kinh doanh của công ty trong khuôn
khổ điều lệ như quyết định phương hướng hoạt động của công ty
thông qua tổng kết năm tài chính, quyết định việc phân chia lợi
nhuận, bầu hoặc bãi miễn thành viên trong Hội đồng quản trị và
kiểm soát viên, Đại hội đồng cổ đông bất thường được triệu tập để
sửa đổi điều lệ của công ty.
Hội đồng quản trị là bộ máy quản lý của công ty bao gồm từ
3-12 thành viên. Hội đồng quản trị có toàn quyền nhân danh công
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét