Theo Romain Wacziarg thì cho rằng có sáu liên kết giữa các chính sách thương mại
và tăng trưởng kinh tế kết hợp trong mô hình thực nghiệm. Các kênh được phân loại rõ
ràng theo chính sách của chính phủ, phân phối nội địa và chuyển giao công nghệ. Chính
sách Chính phủ: Mở cửa về thương mại có thể tạo ra động lực cho các nhà hoạch định
chính sách theo đuổi chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, bảo vệ môi trường cạnh tranh hỗ
trợ doanh nghiệp trong nước tham gia vào các giao dịch quốc tế Mà ổn định kinh tế vĩ
mô có khả năng ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng bằng cách giảm sự bất ổn về giá cả
và thâm hụt công và nợ tới mức vừa phải từ đó làm giảm hiệu ứng chèn lấn và có thể
tăng thuế sau này và giúp các doanh nghiệp trong nước tăng cường năng lực để cạnh
tranh trên thị trường toàn cầu (Fischer, 1993, trích trong Romain Wacziarg). Quy mô của
Chính phủ cũng ảnh hưởng đến việc mở cửa bởi vì khi mở cửa nền kinh tế sẽ phải chịu
các cú sốc ở bên ngoài khi đó một Chính phủ quy mô hơn có khả năng chống đỡ tốt hơn.
Mặt khác, mở cửa nền kinh tế có xu hướng thiên về tự do kinh doanh và chính sách về
thuế được giới hạn hơn để bảo vệ khả năng cạnh tranh (về giá) và sức hấp dẫn của nền
kinh tế đối với nhà đầu tư nước ngoài. Ảnh hưởng của việc mở cửa xét theo quy mô của
chính phủ được đo bằng mức tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ công. Đối với Phân phối: Mở
cửa nền kinh tế tự do sẽ tạo điều kiện hội tụ giá hàng hoá buôn bán qua các nước. Các
nước mở cửa sẽ có xu hướng chuyên môn hoá theo lợi thế so sánh của họ do đó ảnh
hưởng của chênh lệch hàng hoá không ngoại thương từ sức mua tương đương đã được
loại bỏ, các nước có chính sách mở cửa thương mại kỳ vọng sẽ có tổng mức giá thấp hơn
(liên quan đến một số tiêu chuẩn quốc gia như Hoa Kỳ) so với các nền kinh tế đóng
(Dollar 1992, trích trong Romain Wacziarg). Do đó, ý nghĩa lý thuyết về giá cả bị bóp
méo ở mức độ thấp hơn trong nền kinh tế mở và sự bóp méo giá cả đã được chứng minh
là yếu tố ảnh hưởng đến tích lũy và tăng trưởng (
Easterly 1989, 1993,
trích trongRomain
Wacziarg). Yếu tố tích tụ cũng có thể có tầm quan trọng quyết định. Phần lớn ảnh hưởng
của chính sách tăng trưởng thương mại có thể thực hiện thông qua tỷ lệ đầu tư trong
nước mà nó là một yếu tố quyết định sự tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra mở cửa sẽ tạo cho
các doanh nghiệp trong nước nhập khẩu các nguyên liệu mà trước đây không co hoặc có
nhưng với chi phí sản xuất cao. Cuối cùng là chuyển giao công nghệ. Việc mở cửa tạo
cho các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tiếp xúc nhiều hơn với các đối tác trên thế
5
Nhóm 6: Phân tích mối quan hệ giữa mở cửa và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
giới có nền công nghiệp phát triển, từ đó có thể tạo thuận lợi cho quá trình chuyển giao
công nghệ để tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế thông qua nhập khẩu công nghệ hoặc
qua FDI. Bằng chứng cho thấy rằng nền kinh tế mở thu hút FDI nhiều hơn các nền kinh
tế đóng (Harrison và Revenga 1995)
1
.
Tyler (1981) phân tích các mối quan hệ thực nghiệm giữa tăng trưởng kinh tế và mở
rộng xuất khẩu trong một mẫu thu nhập trung bình của 55 nước đang phát triển kết quả
cho thấy có mối liên quan tích cực giữa tăng trưởng xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế.
Một vài nghiên cứu đã khảo sát tác động của sự mở cửa đối với tăng trưởng kinh tế ở
Pakistan sử dụng kỹ thuật chuỗi thời gian. Iqbal và Zahid (1998) sử dụng một khung hồi
quy để điều tra yếu tố kinh tế vĩ mô ảnh hưởng đến tăng trưởng ở Pakistan bao hàm cả
mở cửa. Kết quả cho thấy sự mở cửa có tác động có lợi đến tăng trưởng kinh tế. Khan,
Malik và Hasan (1995) khảo sát các quan hệ nhân quả giữa xuất khẩu và tăng trưởng
kinh tế ở Pakistan. Nghiên cứu tìm thấy hỗ trợ cho quan điểm rằng xuất khẩu thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Kemal, Din, và Qadir (2002) cũng xem xét mối quan hệ giữa xuất
khẩu và tăng trưởng kinh tế ở các nền kinh tế Nam Á bao gồm Pakistan và tìm thấy một
liên kết tích cực giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế cho tất cả các nước
2
.
Theo lý thuyết phát triển thì mở cửa kinh tế được thể hiện bằng việc tư do hoá dòng
vốn, tư do hoá thương mại thông qua việc dỡ bỏ các rào cản về thuế quan và phi thuế
quan và các chính sách về tỷ giá. Nhiều cách đo lường khác nhau đã được sử dụng để
đánh giá ảnh hưởng của mở cửa đối với tăng trưởng kinh tế bao gồm: Chỉ số hạn chế
thương mại (được phát triển bởi Anderson và Neary, 1992), tỷ lệ thương mại – GDP
(Harrison, 1996), tỷ lệ thuế trung bình và các rào cản phi thuế quan (NTB) (Lee, 1993;
Harrison, năm 1996; Edwards, 1998; Sala-i -Martin, 1997, Clemens và Williamson,
2001), sự tương quan giá vốn hàng hóa đối với giá quốc tế (Barro, 1991), sự khác biệt
thương mại giữa thực tế và dự báo (Edwards, 1992), chênh lệch thị trường chợ đen
(Harrision, 1996), chỉ số mở cửa ( được phát triển bởi Leamer, năm 1988; Sachs và
Warner, 1995), và chỉ số giá méo mó và biến thiên (được phát triển bởi Dollar, 1992) là
một số trong những biện pháp này sử dụng rộng rãi (Mahfuz Kabir)
3
.
1
Trích trong Romain Wacziarg: Measuring the Dynamic Gains from Trade
2
Xem trong Musleh-Ud Din, Ejaz Ghani, And Omer Siddique:: Openness and Economic Growth in Pakistan
3
Trích trong Mahfuz Kabir: On openness and economic growth: Evidence from Bangladesh
6
Nhóm 6: Phân tích mối quan hệ giữa mở cửa và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
CHƯƠNG III: PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH
Trong phần này sẽ xem xét mối liên hệ giữa mở cửa và tăng trưởng kinh tế trong bối
cảnh Việt Nam.
Định nghĩa chính xác về "mở cửa" nền kinh tế là rất khó khăn vì có rất nhiều cách để
xác định sự mở cửa của nền kinh tế. Các tiêu chuẩn mở cửa cũng có cả ở quốc gia xác
định và giữa các quốc gia có trao đổi thương mai song phương với nhau, có nghĩa là sự
mở cửa của một quốc gia được xem là khoảng thời gian thay đổi định chế thương mại ở
nước đó cũng như vị trí tương đối của định chế thương mại của quốc gia đó với phần còn
lại của thế giới. Mở cửa thương mại đã giúp thúc đẩy việc chuyển đổi cơ cấu trong nền
kinh tế, thúc đấy tiến trình đổi mới công nghệ thông qua việc ứng dụng các tiến bộ trong
công nghệ mới và cho phép chuyển đổi các nguồn lực trong nước từ việc sử dụng kém
hiệu quả sang sử dụng hiệu quả hơn. Việc giảm rào cản thương mại đã thúc đẩy mạnh
các hoạt động sản xuất trong nền kinh tế. GDP được ước tính là gần 2 phần trăm cao hơn
như so với các thị trường đơn lẻ
4
. Đo lường độ mở cửa là một thách thức lớn nhất đối
với các nghiên cứu liên quan đến chính sách thương mại (Rodrik và Rodríguez (2000) và
Pritchett (1996a), trích trong Romain Wacziarg). Về cơ bản có ba loại chỉ số mở cửa của
nền kinh tế. Chỉ số đầu tiên là các biến về sản lượng chẳng hạn như tỷ lệ xuất khẩu trên
GDP và tỷ lệ thương mại-GDP. Chỉ tiêu thứ hai được dựa trên các biến chính sách chẳng
hạn như thuế quan và hàng rào phi thuế quan đối với thương mại. Cuối cùng chỉ tiêu thứ
ba đo lường gián tiếp chẳng hạn như biến không ngoại thương hoặc xem xét chủ quan về
định chế thương mại của một quốc gia
5
. Các chỉ số trên cũng còn có các ý kiến khác nhau
về độ chính xác như Rodriguez và Rodrik (1999) lập luận rằng trong việc so sánh chéo
giữa các quốc gia khác nhau thì tỷ lệ thương mại-GDP có thể bị ảnh hưởng nhiều bởi một
số yếu tố cấu trúc như vị trí địa lý chứ không phải là sự khác biệt trong các rào cản
thương mại. Chỉ số thứ hai được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu nhất là các nghiên
cứu sử dụng phương pháp tiếp cận định lượng, tuy nhiên dữ liệu về biến chính sách như
thuế quan và hàng rào phi thuế quan để so sánh chéo giữa các quốc gia trong một số
trường hợp là không khả thi vì dữ liệu về hàng rào phi thuế quan đối với thương mại
4
Xem trong Claudia DOBRE (2008)
5
Xem Selim Raihan (2004)
7
Nhóm 6: Phân tích mối quan hệ giữa mở cửa và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
đang bị "mờ” đối với hầu hết các quốc gia và trên thực tế nó trở thành một nhiệm vụ khó
khăn. Chỉ tiêu thứ ba cũng bị chỉ trích vì nó phụ thuộc nhiều vào các biến số phi thương
mại như tỷ giá hối đoái và thị trường phi chính thức và chủ quan của người đánh giá. Tuy
nhiên cho đến nay chúng vẫn được dùng phổ biến trong các phân tích như là thước đo
cho sự mở cửa kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng ổn định trong các phúc lợi của một quốc gia, nền
kinh tế, khu vực, thành phố cùng với những thay đổi đang diễn ra trong cơ cấu công
nghiệp của nền kinh tế, y tế công cộng, biết chữ, và nhân khẩu học; và phân phối thu
nhập. Bức tranh toàn cảnh về các thay đổi sâu sắc xã hội và kinh tế có thể được đơn giản
hóa đáng kể bằng cách tập trung vào chỉ một biến kinh tế trọng điểm duy nhất: thu nhập
bình quân đầu người. Thu nhập bình quân đầu người là tổng giá trị của tất cả các hàng
hoá và dịch vụ sản xuất trong nền kinh tế nó là một chỉ số quan trọng và được dùng rất
phổ biến để đo lường mức độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia.
Nghiên cứu này sử dụng hai chỉ số cơ bản để phân tích mối quan hệ giữa mở cửa và
tăng trưởng kinh tế đó là chỉ số tỷ lệ thương mại – GDP (%GDP) và thu nhập bình quân
đầu người.
Kể từ khi thực hiện công cuộc "Đổi Mới" đến nay, kinh tế và xã hội Việt Nam đã có
những thay đổi mạnh mẽ. Đến nay, Việt Nam đã và đang hội nhập vào nền kinh tế thế
giới. Những thay đổi này đã tác động mạnh mẽ đến thương mại, đầu tư và tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam. Từ sau giai đoạn mở cửa kinh tế, thương mại của Việt Nam tăng lên
rất nhanh. Tính trung bình từ năm 1990 đến 2009, xuất khẩu của Việt Nam tăng trung
bình hàng năm 18,7%/năm, trong khi đó nhập khẩu tăng trung bình 20,1%/năm. Tổng
kim ngạch nhập khẩu từ mức chỉ bằng 76% GDP vào năm 1990 tăng lên 162% GDP vào
năm 2008. Thâm hụt thương mại theo đó cũng ngày càng lớn, từ mức 0,6 tỷ USD năm
1990, và lên đỉnh điểm vào năm 2008 là 17,51 tỷ USD.
Sự tăng mạnh của kim ngạch xuất nhập khẩu làm cho nền kinh tế Việt Nam có độ mở
ngày càng cao. Tuy nhiên, tiềm ẩn sau đó là những rủi ro. Tổng thâm hụt thương mại của
Việt Nam từ năm 1990 đến 2009 đã lên tới 84 tỷ USD, tương đương với GDP của năm
2007. Thâm hụt thương mại/GDP liên tục tăng cao trong những năm gần đây và lên tới
8
Nhóm 6: Phân tích mối quan hệ giữa mở cửa và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
hơn 20% GDP vào năm 2008. Đây là mức cao vượt xa trung bình của các nước trên thế
giới.
Theo số liệu trên bảng 1 cho thấy trong giai đọan đầu của mở cửa nền kinh tế, kim
ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam chưa được cải thiện nhiều là do trong giai đoạn
đóng cửa nền kinh tế hàng hoá của Việt Nam chưa được thị trường quốc tế biết đến ngoại
trừ các nước xã họi chủ nghĩa do vậy mặc dù Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa
nhưng các rào cản về tâm lý vẫn còn tồn tại, các chính sách của Việt Nam nhất là hệ
thống luật pháp chưa theo đúng chuẩn mực quốc tế. Khi đó Việt Nam chưa tham gia vào
các tổ chức quốc tế. Năm 1995 là thời điểm Việt Nam chính thức nộp đơn xin gia nhập
WTO lúc này chính sách kinh tế của Việt Nam hướng đến việc tuân theo các chuẩn mực
quốc tế, đây là dấu hiệu để tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài đối với Chính Phủ
Việt Nam. Giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu của năm 1995 tăng đột biến cho thấy chính
sách của Chính Phủ có tác động tích cực đến thương mại quốc tế của Việt Nam.
Qua số liệu trong bảng 2 cho thấy mặc dù tỷ lệ trương mại trong GDP tăng lên rất
nhanh và chiếm tỷ lệ rất cao trong GDP đồng thời thu nhập bình quân đầu người cũng
tăng theo thời gian. Từ năm 1990 đến nay, GDP đã tăng trưởng mạnh và thu nhập đầu
người đã tăng gấp 6 lần theo tỷ giá hiện hành. Nếu tính trên cơ sở ngang giá sức mua
(PPP) thì thu nhập đầu người tăng trên 4 lần từ $630 lên $2700 năm 2008.
Theo ước tính, lợi ích động và tác động đến tăng trưởng của thuận lợi hóa thương mại
và tự do hóa dịch vụ và đầu tư sẽ đóng góp thêm 2% cho tốc độ tăng GDP hàng năm của
nền kinh tế (tính gộp mỗi năm). Lợi ích động này có được là do hai nhân tố. Thứ nhất, tự
do hóa hàng hóa và dịch vụ và đầu tư sẽ làm tăng thêm 1,5% GDP vào tốc độ tăng
trưởng. Tăng thêm đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ mang lại những lợi ích từ hội nhập
thương mại thông qua cải thiện nguồn vốn con người và tiếp nhận đổi mới công nghệ.
Tăng thêm FDI dường như là phương thức hiệu quả nhất để mở rộng thương mại dịch
vụ. Tăng FDI cũng có thể góp phần vào tăng tổng đầu tư và cải thiện tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Nhân tố thứ hai chính là tác động của tích tụ vốn từ FDI đến kinh tế vĩ mô sẽ góp
thêm 0,5% GDP vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam
6
6
Theo “Hội nhập kinh tế và Sự phát triển ở Việt Nam: Báo cáo cuối cùng ,2009”
9
Nhóm 6: Phân tích mối quan hệ giữa mở cửa và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
Theo số liệu ở bảng 1 cho thấy tăng trưởng tỷ trọng xuất khẩu trong nền kinh tế của
Việt Nam có mức tăng trưởng rất tốt. Xuất khẩu tăng từ khoảng 6% đến khoảng 75%
GDP là một bằng chứng cho thấy tự do hóa thương mại là động lực chính thúc đẩy quá
trình tăng trưởng kinh tế. Số liệu trên cho thấy mở cửa chính động lực này thúc đẩy quá
trình tích tụ vốn và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Như vậy, các bằng chứng ở Việt nam cho
thấy quá trình hội nhập đã thúc đẩy đổi mới, tăng năng suất và thúc đẩy phát triển kỹ
năng và nguồn vốn con người để dẫn tới tăng trưởng cao hơn.
Tuy nhiên, quá trình tăng trưởng kinh tế rất phức tạp và phản ánh cả những lợi ích thu
được từ hội nhập và từ gia tăng tích tụ vốn. Theo số liệu thống kê, tích tụ vốn của nền
kinh tế Việt Nam những năm 90 là rất thấp. Nhưng vào nhưng năm từ 1997 -1998, mặc
dù hầu hết các nước có mức độ mở cửa lớn trong khối ASEAN như Singapore, Thai
Land, Indonesia phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính làm cho đầu tư nước ngoài
giảm sút nhưng trong thời gian này tốc độ tích tụ vốn của Việt Nam tăng mạnh. Số liệu
về FDI trong bảng 4 dưới đây cho thấy trong thời gian gần đây, FDI là nguồn tích tụ vốn
chính của Việt Nam, thậm chí ngay cả sau khi gia nhập WTO, FDI tăng mạnh vào năm
2007 và 2008.
Bảng 4: Tốc độ tăng trưởng hàng năm của GDP và xuất khẩu
Tốc độ tăng trưởng hàng năm 1987 – 1997 1997 - 2007 2007 2008 2009
GDP 7,7 7,2 8,5 6,2 5,0
GDP đầu người 5,6 5,9 7,2 4,9 4,0
XK hàng hoá dịch vụ 27,3 19,7 17,9 18,2 21,8
Nguồn: Ngân hàng thế giới, Các chỉ số Phát triển thế giới và triển vọng kinh tế thế giới, www.worldbank.org.
Theo số liệu trong bảng 5 cho thấy trong giai đoạn 2007 và 2008, luồng vốn FDI vào
Việt Nam tăng mạnh. Mặc dù đây là giai đoạn bùng nổ FDI toàn cầu nhưng lý do cho sự
gia tăng này chính là việc hoàn tất gia nhập WTO của Việt Nam đã tạo điều kiện tích cực
cho FDI tăng mạnh. Luồng vốn FDI vào cũng mang lại những lợi ích nhất định về mặt
công nghệ và phát triển nguồn vốn con người. Trước hết, FDI thường mang lại công
nghệ tiên tiến và tạo điều kiện cho tiếp cận vào mạng sản xuất toàn cầu. Thứ hai, công
nghệ tiên tiến lan tỏa trong nền kinh tế thông qua mạng sản xuất và chuyển giao kỹ năng
và công nghệ cho người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
10
Nhóm 6: Phân tích mối quan hệ giữa mở cửa và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét