Thứ Năm, 6 tháng 3, 2014

ảnh hưởng và vai trò của Nho giáo trong việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức của con người Việt Nam

Mục lục
Lời mở đầu 2
Nội dung 4
Phần II 10
ảnh hởng và vai trò của Nho giáo trong việc xây dựng
và hoàn thiện đạo đức của 10
con ngời việt nam 10
Kết luận 15
Tài liệu tham khảo 16

Phạm Thị H ờng - Cao học hóa K18

Lời mở đầu
Nét đặc thù của triết học Trung quốc cổ đại là hầu hết các học thuyết có xu
hóng đi sâu giải quyết những vấn đề thực tiễn của xã hội với nội dung bao trùm là
vấn đề con ngời, xây dựng con ngời xã hội lý tởng và con đờng trị nớc. Có nhiều
hệ t tởng xuất hiện và tồn tại mãi cho đến ngày nay. Theo sách Hán th có tất cả
103 học phái nhng ảnh hởng lớn nhất là 3 phái : Nho gia, Đạo gia, Mặc gia. Học
thuyết Nho gia có ảnh hởng lớn và phát triển . T tởng Nho gia do Khổng tử sáng
lập . Khổng tử và các nhà Nho nói chung đều có t tởng xây dng một chế độ phong
kiến có kỷ cơng nền nếp thanh bình thịnh trị, đất nớc có vua thánh tôi hiền dân an
c lạc nghiệp, đất nớc thanh bình thịnh trị, vua có đạo đức có trí tuệ biết dùng ngời .
Xã hội đó lấy gia đình làm cơ sở yêu trẻ kính già ai nấy đểu trọng tình cảm và
công bằng, không ai nghèo quá mà cũng không ai giàu quá. Đợc nh vạy thì các
giai cấp hoà hợp với nhau không có sự oán giận. Để thực hiện ý tởng nh vậy ông
đã xây dựng nên học thuyết đạo đức của Nho giáo.
Trong đó có ba phạm trù cơ bản là Nhân - Lễ - Chính.
Kể từ lúc xuất hiện từ vài thế kỷ trớc công nguyên cho đến thời nhà Hán
(Hán Vũ Đế) Nho giáo đã chính thức trở thành hệ t tởng độc tôn và luôn luôn giữ
vị trí đó cho đến ngày cuối cùng của chế độ phong kiến. Điều đó đã minh chứng rõ
ràng: Nho giáo hẳn phải có những giá trị tích cực đặc biệt, nếu không sao nó có
thể có sức sống mạnh mẽ đến nh vậy.
Chính vì ý nghĩa và vai trò to lớn của Nho giáo đối với tiến trình phát triển
của triết học, con ngời Trung Quốc và Việt Nam nên em chọn đề tài Những nội
dung cơ bản của học thuyết đạo đức của nho giáo và ảnh hởng của nó trong
2
Phạm Thị H ờng - Cao học hóa K18
việc xây dựng và hoàn thiện đạo đức của con ngời Việt Nam(trong lịch sử và
hiện nay).
3
Phạm Thị H ờng - Cao học hóa K18
Nội dung
Phần I: Nội dung cơ bản trong học thuyết đạo đức của
Nho giáo

Khổng tử và các nhà Nho nói chung đều có t tởng xây dng một chế độ
phong kiến có kỷ cơng nền nếp thanh bình thịnh trị, đất nớc có vua thánh tôi hiền
dân an c lạc nghiệp, đất nớc thanh bình thịnh trị, vua có đạo đức có trí tuệ biết
dùng ngời. Xã hội đó lấy gia đình làm cơ sở, yêu trẻ kính già, ai nấy đều trọng tình
cảm và công bằng, không ai nghèo quá mà cũng không ai giàu quá. Đợc nh vậy thì
các giai cấp hoà hợp với nhau không có sự oán giận. Nho giáo đặt vấn đề xây
dựng con ngời một cách thiết thực. Nho giáo hớng con ngời vào tu thân và thực
hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất, luôn đợc đặt vào vị trí thứ nhất
của sinh hoạt xã hội, quan điểm về vũ trụ, về nhân sinh, về nhận thức luôn thấm đ-
ợm ý thức đạo đức. Tất cả mọi vấn đề đều lấy đạo đức làm chuẩn. Vì vậy vấn đề
thiện và ác của con ngời thành tiêu điểm tranh luận quan trọng nhất của lịch sử
triết học Trung quốc.
Ngời Trung quốc trong lịch sử coi việc tu thân dỡng tính cá nhân liên hệ
mật thiết với nhận thức thế giới khách quan, coi tu thân dỡng tính là cơ sở để nhận
thức thế giới khách quan. Mục tiêu xây dựng của Nho giáo là giúp con ngời xác
định đợc 5 mối quan hệ cơ bản và làm tròn trách nhiệm trong mối quan hệ ấy. Để
thực hiện ý tởng đó ông đã xây dựng nên học thuyết đạo đức của Nho giáo, trong
đó có ba phạm trù cơ bản là Nhân - Lễ - Chính.
Học thuyết Nhân
Đây là phạm trù trung tâm của đạo đức Nho giáo thể hiện sáng tạo của
Khổng Tử. Ông đa ra phạm trù Nhân để phát huy tính năng động sáng tạo của con
ngời. Theo ông, triều đình muốn thái bình thịnh trị thì con ngời cầm quyền phải
có đức nhân. Một xã hội muốn yên ổn thì phải có nhiều ngời theo điều Nhân.
Nhân có nhiều nghĩa khác nhau, có thể khái quát mấy nội dung sau:
4
Phạm Thị H ờng - Cao học hóa K18
Trớc hết, Nhân là yêu ngời, thơng ngời hết lòng vói ngời khác. Bản tính này
đợc bộc lộ, tiềm ẩn trong các quan hệ xã hội giữa ngời và ngời. Khổng Tử nói: đạo
ta là do một lẽ mà thông suốt tất cả chỉ gom vào một chữ trung thứ. Quan niệm
trung thứ biểu hiện tính nhân văn sâu sắc, một lẽ sống, sống sao cho nên ngời . Đó
là đạo làm ngời mà cốt lõi là vừa yêu thơng, vừa phải giúp đỡ lẫn nhau để tạo dựng
cuộc sống cộng đồng hoà bình, hạnh phúc.
Thứ hai, Nhân là cái gốc, Nhân sinh ra các đức khác, các đức khác hội tụ cả
ở Nhân. Theo Khổng tử Nhân là cái thế yên lặng nh núi, bao nhiêu cái đức khác
đều bơỉ đó mà sinh ra.
Nhân là cái gốc của sự sinh hoá trong trời đất :
Thế gian nhờ đó mà đứng
Vạn vật nhờ đó mà sinh
Quốc gia nhờ đó mà còn
Lễ nghĩa nhờ đó mà phát hiện ra
Nhân là yêu ngời, yêu vật, lòng yêu thơng ấy đều xuất phát một cách tự
nhiên chứ không miễn cỡng chút nào. Nh vậy theo Nho giáo, chữ Nhân gồm cả
đức, lễ, nghĩa, trí, tín (Ngũ luân).
Nhân còn bao gồm nhiêu tiêu chuẩn đạo đức khác nữa nh trung hiếu, cung
kính, khoan hoà, cần mẫn, chính đáng, thật thà, khiêm tốn, dũng cảm , học gắn với
hành . Nh vậy chữ Nhân trong Nho giáo không chỉ là yêu thơng con ngời mà còn
là đạo làm ngời. Nhân bao gồm nhiều tiêu chuẩn đạo đức nh vậy nên một ngời chỉ
có một số tiêu chuẩn thì cha thể coi là ngời có Nhân.
Nho giáo gọi ngời có Nhân là ngời quân tử đối lập với kẻ tiểu nhân Sự phân
biệt đẳng cấp nh vậy cũng là nét đặc biệt trong t tởng đạo đức của Nho giáo. Có
thể nói, Khổng tử là ngời đầu tiên trong lịch sử nhân loại đề cập đến con ngời trên
bình diện Nhân đạo chứ không phải trên bình diện Nhân quyền, ông đã phát hiện
sức mạnh của đạo đức.
Học thuyết về Lễ
Lễ theo Khổng tử là toàn bộ những nghi lễ, chuẩn tắc trong quan hệ giứ ng-
ời với ngời, từ hành vi ngôn ngữ cho đến trang phục, nhà cửa. Lễ vừa là cách thờ
5
Phạm Thị H ờng - Cao học hóa K18
cúng, vừa là quy định có tính luật pháp vừa là những phong tục tập quán một kỷ
luật tinh thần. Lễ đợc chia thành 5 loại: Cát Lễ, hung Lễ, quân Lễ, tân Lễ, gia Lễ.
Lễ còn bao hàm mọi nghi thức trong sinh hoạt xã hội, nhng quy định chi tiết đến
cả những hoạt động cá nhân (ăn mặc, đi đứng, chào hỏi, cới xin, hội hè của từng
loại ngời trong xã hội). Ai ở phận vị nào thì chỉ đợc dùng lễ ấy, tùy vào tính chất
công việc khác nhau mà dùng lễ khác nhau.
Giữa Chinh danh và Lễ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: muốn Danh đợc
chính, thì phải thực hiện Lễ, trau dồi Lễ. Lễ của nhà Chu thuần túy là hình thức thể
hiện của hành vi và ý thức Tôn giáo có tính chất tín điều, Khổng Tử đã biến Lễ
thành một phạm trù có ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc, có tác dụng điều chỉnh,
ớc thúc cái bản tính tự nhiên của con ngời. Suy cho cùng Lễ chỉ là sự bổ sung cho
Chính danh
nhằm thiết lập trật tự xã hội phong kiến.
Lễ còn bao hàm cả mọi nghi thức trong sinh hoạt xã hội, những quy định
chi tiết đến cả những hoạt động cá nhân, ai ở phận nào thì đợc dùng lễ ấy, tuỳ
thuộc vào tính chât công việc khác nhau mà dùng lễ khác nhau. Khổng tử đặc biệt
nhấn mạnh thái độ Thành và Kính trong khi thực hành Lễ .
Thuyết Chính danh
Với quan điểm cho rằng sự thay đổi của xã hội làm thiên hạ rối ren không
phải một sớm một chiều mà là một quá trình bắt đầu từ sự sa đoạ của đẳng cấp
cầm quyền khiến danh không dợc chính. Nừu danh không đợc chính thì lời nói
không đúng, lời nói không đúng sẽ dẫn đến việc làm sai. Khi đó ngời với ngời
trong xã hội không còn kính trọng nhau, không còn hòa khí, luật pháp lỏng lẻo,
dân mất đoàn kết, mất nơi trông cậy nhờ vả, không còn tin ở bậc cầm quyền, tất
yếu dẫn tới rối loạn. Danh của Khổng Tử có thể hiểu nh tên gọi của một vật, một
ngời trong mối quan hệ cụ thể trong xã hội. Phận là nghĩa vụ và quyền lợi của từng
ngời tơng ứng với danh của nó.
Chính danh là làm rõ danh xng, danh phận vật nào ngời nào mang danh nào
và phải thực hiện bằng đợc những yêu cầu mà danh mình đòi hỏi. Khổng Tử cho
rằng Chính danh là làm việc cho ngay thẳng, vua phải làm trọn đạo làm vua, bề tôi
6
Phạm Thị H ờng - Cao học hóa K18
phải làm trọn đạo của bề tôi, cha phải làm trọn đạo của cha và con phải làm trọn
đạo làm con. Một xã hội có Chính danh là một xã hội có trật tự kỷ cơng, thái bình
thịnh trị. Trớc sự loạn danh của xã hội Đông Chu, Khổng Tử chủ trơng chính danh
để khôi phục lại kỉ cơng. Cần chú ý là chính danh của Nho giáo nguyên thủy là
chính danh hai chiều trong quan hệ mà trớc hết đặt trách nhiệm với bề trên: quân
minh thần trung, phụ từ tử hiếu. Nó khác hẳn với quan niệm về Chính danh
của Đổng Trọng Th đời Hán sau này. Cụ thể là Đổng Trọng Th đã chủ trơng kết
hợp Nho gia với Pháp gia để trị quốc đã duy tâm hóa triệt để thuyết Chính danh.
Mối quan hệ trong các luân để giải quyết hoàn toàn theo Thiên mệnh, kẻ dới phải
tuyệt đối phục tùng ngời trên đến mức: Vua xử bề tôi chết, bề tôi phải chết mới là
trung, cha bắt con chết con phải chết mới là hiếu, chồng nói vợ phải tuyệt đối nghe
theo mới là tiết hạnh. Tam cơng cùng với những tiêu chuẩn đạo đức của bề dới nh:
Trung, hiếu, tiết hạnh đợc đề cao hơn cả. Để Chính danh, Nho giáo không dùng
pháp trị mà dùng đức trị- Nhân chính. Đức trị là dùng luân lý đạo đức điều hành
guồng máy xã hội. Từ vua cho tới dân đều thấm nhuần và hành động theo những
tiêu chuẩn đạo đức Nho giáo, ở đây ông đã gắn đạo đức với chính trị.
Vậy Nho giáo coi những quan hệ chính trị đạo đức là quan hệ nền tảng của
xã hội, trong đó quan trọng là quan hệ vua -tôi, cha- con, anh-em, bạn bè và chồng
vợ điều này phản ánh t tởng chính trị quân quyền và phụ quyền của Nho giáo.từ
những quan hệ ấy ông cũng nêu lên các đức tính cần có là vua nhân, tôi trung, cha
từ, con hiếu, anh lành , em đễ, chồng có nghĩa, vợ vâng lời , bạn có tín.
Để củng cố năm mối quan hệ cơ bản nêu trên, Nho giáo đã nêu lên những
phẩm chất quan trọng con ngời phải đạt tới. Con đờng phấn đấu là phải ra sức tu d-
ỡng bản thân để xây dựng cuộc sống gia đình và đem lại yên vui cho thiên hạ.
ở Trung Quốc xã hội phong kiến vẫn giữ lại rất nhiều di tích của xã hội thị
tộc và xã hội nô lệ, biểu hiện trong pháp luật và phong tục dới nhiều hình thức nh
quan niệm về sở hữu ruộng đất thuộc về quốc gia, quan niệm tôn pháp trong gia
tộc, ở trong một xã hội nh vậy thì vua là tổ của thị tộc, là cha của dân, mà cha là
trời của con, chồng là trời của vợ. Để tồn tại trên cơ sở sản xuất đặc thù á Đông
(phơng thức sản xuất Châu á) giai cấp địa chủ thống trị cần phải giữ những quan
7
Phạm Thị H ờng - Cao học hóa K18
niệm ấy, do đó chữ Trung, chữ Hiếu, chữ Chinh là những khái niệm luân lý tuyệt
đối trong xã hội phong kiến Trung Quốc. Trong hình thái ý thức phong kiến hệ
giữa ngời với ngời chỉ đợc ghép vào 5 loại (ngũ luân), ấy là: vua tôi, cha con,
chồng vợ, anh em, bạn bè. Trong 5 cặp ấy thì hai cặp anh em, bạn bè chỉ là nhành
ngọn, mà 3 cặp kia mới là cội gốc. Những tính lớn của nhân loại, theo quan niệm
phong kiến là nhân, nghĩa, lễ, trí (về sau có thêm chữ tín) cũng là phát sinh trên cơ
sở của ngũ luân. Nh Khổng Tử nói rằng hiếu đễ là gốc của chữ Nhân.
T tởng của chế độ phong kiến thì lấy đạo đức, danh dự làm hình thái đại biểu.
Nó không giống với t tởng của thời đại t bản chủ nghĩa ở chỗ t tởng này lấy tự do
bình đẳng làm hình thái đại biểu. ở đây chữ đạo đức và danh dự cũng đồng nghĩa với
chữ lý luận và danh phận trong Nho giáo mà tự do, bình đẳng là t tởng cá nhân của xã
hội t sản.
Nho giáo là hình thái ý thức của giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến ở
Trung Quốc. Đối với nó thì ngũ luân, ngũ thờng, hay tam cơng ngũ thờng là những
cái tuyệt đối. Theo bộ sậu chính thờng của t tởng đạo đức thì đạo đức quan phải
diễn dịch từ vũ trụ quan, nhng nho giáo thì làm ngợc trở lại, nó xuất phát từ ngũ
luân, ngũ thờng rồi đem gán những cái ấy cho vũ trụ, cho thợng đế: nó đã luân lý
hoá cả vũ trụ, cả thợng đế, vũ trụ và thợng đế của Nho giáo đều nhuốm màu luân
lý. Đối với nho giáo thì luân lý cơng thờng là hằng tồn, là phổ biến. Nho giáo
không có lịch sử quan, tiến hoá luận. Đối với nó xã hội phong kiến không phải chỉ
là một giai đoạn trong lịch sử loài ngời, luân lý phong kiến không chỉ là một hình
thái ý thức của giai đoạn ấy, nh họ nói: Quân thần chi nghĩa vô sở đào thiên địa
chi gian
Đạo ở đây tức là tam cơng, ngũ thờng.
Nhng qua các thời đại Nho giáo phải chống đỡ một cuộc đấu tranh lý luận đối
với những hệ thống khác, nh triết học của Mặc Tử, Lão Tử, biện chứng pháp của danh
gia, xã hội học của pháp gia, hình nhi thợng của Hoa nghiêm tông, thiền tông Vì
vậy Nho gia đời sau cảm thấy phải xây đắp cho nó một cơ sở lý luận ít ra cũng dễ
coi. Họ tìm đợc những yếu tố triết học trong Nho gia nh sách Trung Dung, Đại học,
8
Phạm Thị H ờng - Cao học hóa K18
Mạnh Tử, Kinh Dịch. Họ lại vay mợn thêm của các triết học và tôn giáo, khác những
cái gì có thể dung hoá đợc, rồi mỗi ngời, mỗi phái xây dựng một học thuyết làm cơ sở
lý luận cho Nho giáo. Do đó đã từng hiện ra cảnh tợng hỗn độn, phức tạp trong các
chi phái nh nói ở trên, chi phái của Nho giáo có thể là nhất nguyên luận hay nhị
nguyên luận, chủ quan luận hay khách quan luận, duy lý chủ nghĩa hay trực quan chủ
nghĩa, đức trị chủ nghĩa hay công lợi chủ nghĩa nhng tất cả đều thống nhất trên
quan điểm luân thờng, cơng thờng. Cho nên, có thể nói, bản chất của t tởng phong
kiến nói chung là đạo đức và danh dự mà bản chất của Nho học là luân lý, danh
phận tức là tam cơng, ngũ thờng.
9
Phạm Thị H ờng - Cao học hóa K18
Phần II
ảnh hởng và vai trò của Nho giáo trong việc xây dựng
và hoàn thiện đạo đức của
con ngời việt nam
Trong quá trình tiếp biến các hệ tử tởng triết học đợc du nhập từ bên ngoài,
Nho giáo từ Trung quốc đã đóng góp một vai trò đặc bịêt quan trọng cả trong lịch
sử và trong thời đại ngày nay
1.Trong lịch sử:
Những t tởng triết học của Nho giáo có vai trò đặc biệt quan trọng đối với
lịch sử triết học nớc ta từ những năm cuối trớc Công nguyên .Từ cuối thế kỷ 18 trỏ
đi , Nho giáo dần dần lấn át Phật giáo và trỏ thành quốc giáo. Nó đợc phát triển
trong sự ảnh hởng của t tởng truyền thống Việt Nam và Phật giáo. T tởng của nho
giáo góp phần xây dựng các triều đại phong kiến vững mạnh bảo vệ chủ quyền dân
tộc.
Công lao của Nho giáo là đào tạo tầng lớp nho sĩ Việt Nam, trong đó có nhiều
nhân tài kiệt xuất nh: Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du, Ngô Thì Nhậm,
Theo Nguyễn Trãi, đạo làm ngời ở ông là phải vơn tới mẫu ngời quân tử, hào kiệt,
đại trợng phu, phải có ba đức tính: nhân, trí, dũng. Đạo làm nguời của ông đợc
phát triển từ đạo làm ngời của Nho giáo, nhng lại khác Nho giáo ở chỗ trung
không phải chỉ với một vua một triều đại mà trung với nớc với dân. Từ sự phân tích
thời thế, chủ quan khách quan ông đã đa ra phơng pháp lấy ít địch nhiều, lấy yếu
chống mạnh ,và đã thành công. Điều đó chứng tỏ t duy lý luận của ông ở thời đó là
hoàn toàn đúng đắn và nó vẫn còn ý nghĩa lý luân về sau.
Nho giáo hớng nhân dân vào con đờng ham tu dỡng đạo đức theo nhân - nghĩa - lễ
tín, ham học tập để phò vua giúp nớc. ảnh hởng chính của nho giáo là thiết lập
kỷ cơng và trật tự xã hội. Nhiều t tởng tiến bộ trong các quan điểm về đạo đức của
Nho giáo đã đợc các nhà t tởng Việt Nam kế thừa theo tinh thần thực tiễn của dân
tộc. Đó là t tởng thân dân, trọng dân, coi dân là gốc của quốc gia; đó là t tởng
nhân nghĩa trong đời sống chính trị xã hội.
10
Phạm Thị H ờng - Cao học hóa K18
Sự phát triển của Nho giáo Việt Nam không tách rời những yêu cầu xã hội,
cho nên trong buổi thịnh tự nhất, nó không khỏi có một số tác dụng tích cực.
Trớc hết là cơng vị độc tôn, Nho giáo đã có thêm nhiều sức mạnh và uy thế
góp phần củng cố và phát triển chế độ quân chủ và những kinh nghiệm mẫu mực
cho việc chấn chỉnh và mở rộng nhà nớc phong kiến tập quyền theo một quy mô
hoàn chỉnh có đầy đủ những thể chế và điều phạm. Mà ở thế kỷ XV, các xu thế
phát triển đó đã và đang giữ vai trò thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt Nam trên
các bình diện sản xuất và củng cố quốc phòng.
Nh đã biết, quá trình đi lên của Nho giáo Việt Nam không tách rời yêu cầu
phát triển nền kinh tế tiểu nông, gia trởng dựa trên quyền sở hữu của giai cấp địa
chủ của nhà nớc và của một bộ phận nông dân trực tiếp tự canh về ruộng đất. Vì
thế cho nên khi chiếm đợc vị trí chủ đạo trên vòm trời t tởng của chế độ phong
kiến, Nho giáo càng có điều kiện xúc tiến sự phát triển này. Nó làm cho sản xuất
nông nghiệp và trao đổi hàng hoá đợc đẩy mạnh hơn trớc.
Đồng thời Nho giáo đem lại một bớc tiến khá căn bản trong lĩnh vực văn hoá
tinh thần của xã hội phong kiến nớc ta từ thế kỷ XV, trớc hết nó làm cho nền giáo
dục phát triển hết sức mạnh mẽ nhất là dới triều Lê Thánh Tông. Nền giáo dục ấy
cùng với chế độ thi cử đã đào tạo ra một đội ngũ tri thức đông đảo cha từng thâý
trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Do đó khoa học và văn học nghệ thuật
phát triển.
Hơn nữa sự thịnh trị của Nho giáo từ thế kỷ XV cũng là một hiện tợng góp
phần thúc đẩy lịch sử t tởng nớc ta tiến lên một bớc mới. Là một học thuyết tích
cực nhập thể, nó cổ vũ và khuyến khích mọi ngời đi sâu vào tìm hiểu những quan
hệ xã hội, những vấn đề của thực tiễn chính trị, pháp luật và đạo đức. Do đó, nhận
thức lý luận của dân tộc ta về các vấn đề ấy cũng đợc nâng cao hơn. Dựa vào lịch
sử của Nho giáo, nhà vua và các nho sĩ giải thích các vấn đề ấy có lập luận và có lý
lẽ đầy đủ hơn.
Đó là mặt tích cực của Nho giáo. Nhng nó góp phần không nhỏ trong việc duy trì
quá lâu chế độ phong kiến kìm hãm quan hệ kinh tế t bản phát triển ở nớc ta. . Nho
11
Phạm Thị H ờng - Cao học hóa K18
giáo Việt Nam dù có lý do để tồn tại và phát triển thì cũng vẫn gắn liền với giai
cấp phong kiến địa chủ trong nớc và là công cụ thống trị và t tởng của giai cấp đó.
Mà giai cấp địa chủ đó từ thế kỷ XV trở về trớc tuy có một vai trò nhất định nhng
vẫn là một giai cấp bóc lột đối với nhân dân. Cho nên Nho giáo với t cách là vũ khí
của giai cấp phong kiến Việt Nam dù cho có không ít tích cực thì tác dụng tích cực
đó cũng còn rất hạn chế. Thực ra ngay ở thời kỳ thịnh trị của nó, Nho giáo cũng đã
có những mặt tiêu cực nghiêm trọng và chứa đựng khả năng suy yếu sau này của
nó.
Nho giáo ở Việt Nam khi chiếm ở vị trí độc tôn thì đã làm cho chủ nghĩa giáo
điều và bệnh khuôn sáo phát triển mạnh trong lĩnh vực t tởng và trong địa hạt giáo
dục khoa học. Các quan lại, sĩ phu, đều lấy thánh kinh, hiền truyện của Nho giáo
làm khuôn vàng thớc ngọc cho mọi ngời suy nghĩ và hành động của mình, lấy cái
xã hội thời Nghiêu Thuấn làm khuôn mẫu cho mọi tình trạng xã hội; lấy những sự
tích và điều phạm trong kinh, th, kinh xuân thu làm tiêu chuẩn để bình giá mọi sự
việc. Bệnh giáo điều và khuôn sáo này đã ăn sâu vào trong lĩnh vực khoa học và
nghệ thuật nhất là trong văn học và sử học khiến cho sự sáng tạo trong các lĩnh vực
này bị dập vào những cái khuôn sẵn có. Đó là một tật bệnh đã đợc rèn đúc ngay từ
khi ngời nho sĩ phải mài dũa văn chơng để tiến vào con đờng cử nghiệp.
Sự thịnh trị của Nho giáo còn khuyến khích mọi ngời nhất là các phần tử tri
thức đi sâu vào cải tạo tu tề trị bình vào việc học hành, thi đỗ, dơng danh thiên
hạ. Dới ảnh hởng của Nho giáo truyền thống tập thể đã biến thành chủ nghĩa
chuyên quyền độc đoán không thúc đẩy sự phát triển của ngành khoa học tự nhiên.
Vì vậy mà trong thực tế, Nho giáo đã làm cho những ngời gia nhập tầng lớp Nho sĩ
này xa rời sinh hoạt kinh tế và lĩnh vực sản xuất xã hội, nó chỉ biết đề cao đạo t
thân và đạo tự nớc chứ không hề đếm xỉa đến các tri thức về khoa học tự nhiên
cũng nh về các ngành sản xuất và lu thông. Tính chất tiêu cực ấy của Nho giáo
càng về sau càng gây tác hại không nhỏ trong việc phát triển lực lợng sản xuất của
xã hội.
12
Phạm Thị H ờng - Cao học hóa K18
Khi đã chiếm đợc địa vị thống trị trên vũ đài t tởng, Nho giáo Việt Nam
không tiếp tục đi sâu vào khám phá những vấn đề bản chất của đời sống và của vũ
trụ, vì mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác. Nó chỉ chú trọng đến những quan hệ
chính trị và đạo đức thực tế. Cho nên khi xã hội phong kiến rối loạn, vấn đề số
phận và yêu cầu giải phóng con ngời đợc đặt ra thì Nho giáo trở thành bất lực. Nó
không giải đáp đợc vấn đề ấy vì nó đã sớm bỏ con đờng phát triển t duy trừu tợng.
Hơn nữa, một khi Nho giáo chiếm vị trí độc tôn thì lễ chế của nó đặc biệt
phát triển mạnh. Khi đó nó bắt đầu đè nặng lên con ngời và bóp nghẹt nếp sống
giản dị, những quan hệ xã hội trong sáng, những tình cảm tự nhiên và chân thực
của suy sụp cùng với xã hội phong kiến thì nó trở nên cổ hủ và lạc hậu.
2.Ngày nay:
Trong xã hội hiện đại, thực tiễn đòi hỏi ngời Việt Nam phải đạt đợc những
yêu cầu mới để thực hiện những nhiệm vụ của từng giai đoạn phát triển trong mục
tiêu chung trớc những diễn biến đa dạng, phức tạp của thế giới trớc những cơ hội
và thử thách của chíng mình. Vì vậy con ngời luôn cố gắng hoàn thiện mình để đạt
đựoc mục tiêu đó.
Con ngòi Việt Nam vẫn duy trì nét văn hóa Phơng Đông ảnh hởng từ những
t tởng tích cực của Nho giáo nh: thơng yêu con ngời, t tởng tu nhân dỡng tính,
hành đạo cứu ngời, đề cao văn hóa, đạo đức hiếu học. Từ đó ngời Việt Nam phấn
đấu trở thành ngời có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung,tôn trọng
kỷ cơng phép nớc, có lối sống lành mạnh thờng xuyên học tập nâng cao hiểu biết,
trình độ chuyên môn. Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con ngời Việt
Namphát triển toàn diện về chính trị, t tởng,trí tụê, đạo đức thể chất, nng lực sáng
tạo có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái bao dung, tôn trọng nghĩa tình, quan hệ hài
hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
Hồ Chí Minh chịu ảnh hởng nhiều tinh hoa văn hóa của phơng Tây và ảnh h-
ởng của văn hóa phơng Đông. Đối với văn hóa phơng Đông, Hồ Chí Minh đã chắt
lọc những t tởng tích cực của Nho giáo nh thơng yêu con ngời, đề cao văn hóa đạo
đức. Trong những cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mĩ, Hồ Chí Minh luôn đề
13
Phạm Thị H ờng - Cao học hóa K18
cao chữ Nhân. Bác hô hào khẩu hiệu đánh kẻ chạy đi không ai đánh ngời chạy lại.
Những ngời Việt có t tởng sai lầm đi theo hàng ngũ phản động khi đã đợc giác ngộ
thì luôn đợc đón nhận với thái độ không kì thị. Đối với hàng binh thì luôn nhận đ-
ợc thái độ bao dung.
Tuy nhiên t tởng của Nho giáo cũng làm hạn chế t duy của con ngời bởi các
Lễ giáo, giáo điều, t tởng trọng nam khinh nữ, các luật lệ hà khắc không còn phù
hợp với thời đại ngày nay. Chúng ta không thể hoàn toàn tuân theo tam cơng, ngũ
thờng trong các mối quan hệ xã hội ngày nay mà chỉ tiếp thu những t tởng phù
hợp. Chúng ta không để mình quá gò bó trong các luật lệ cổ hủ, nh vậy sẽ không
phát triển t duy sáng tạo theo kịp sự phát triển của thời đại ngày nay.

14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét