Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2014

Thực trạng tác động của cơ chế lãi suất thị trường đối với nền kinh tế





suất huy động ở mức cho phù hợp với ngân hàng mình điều này là có lợi cho các
chủ thể trong nền kinh tế. Đồng thời đòi hỏi các ngân hàng không ngừng nâng cao
chất lượng dịch vụ và ngày càng hoàn thiện để có chỗ đứng trên thị trường.
- Lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô.
- Lãi suất là công cụ đo lường tình trạng sức khoẻ của nền kinh tế: nhìn vào tình
hình biến động lãi suất trên thị trường trong một thời gian, người ta có thể thấy
được tình hình kinh tế của một quốc gia. Trong giai đoạn đang phát triển của nền
kinh tế lãi suất có xu hướng tăng do cung – cầu quỹ cho vay đều tăng, trong đó tốc
độ tăng của cầu quỹ cho vay nhanh hơn tốc độ tăng của cung quỹ cho vay. Ngược
lại trong giai đoạn suy thoái của nền kinh tế lãi suất có xu hướng giảm xuống. Lãi
suất, mức lạm phát tính có mối quan hệ chặt với nhau cho nên căn cứ vào tình hình
biến động của lãi suất có thể dự đoán được các yếu tố kinh tế khác.
1.3 . Cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng Nhà Nước qua các thời kì.
Lãi suất là một công cụ đặc biệt quan trọng trong tay NHNN để hoạch định và
điều hành chính sách tiền tệ. Lãi suất là vấn đề hết sức nhạy cảm trong nền kinh tế,
nó tác động đến mọi khâu của quá trình sản xuất, kinh doanh, tích luỹ, tiêu dùng,
tiết kiệm và đầu tư… Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn nước ta trong nhiều năm đổi
mới cho thấy vai trò quan trọng của cơ chế điều hành lãi suất đối với mục tiêu ổn
định và phát triển thị trường tài chính tiền tệ, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và tăng
trưởng kinh tế. Trong quá trình chuyển từ nền kinh tế tập chung sang nền kinh tế thị
trường, cùng với việc đổi mới cơ chế điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng và hoạt
động ngân hàng, cơ chế điều hành lãi suất đã được NHNN cải cách từng bước theo
hướng lãi suất thị trường và thu được những thành quả cơ bản, sử lí dần dần các bất
hợp lí trong cơ chế lãi suất, chế độ kiểm soát lãi suất cứng nhắc dần dần được nới
lỏng theo hướng đi tự do hoá với những bước đi thận trọng, cụ thể như sau:
- Thời kì từ năm 1992 trở về trước: Cơ chế lãi suất tín dụng thời kì này thể hiện sự
bao cấp về vốn của Nhà nước đối với nền kinh tế, lãi suất âm (lãi suất cho vay thấp
hơn lãi suất tiền gửi), ngân hàng quy định cụ thể từng mức lãi suất tiền gửi và lãi




suất cho vay với từng loại hình doanh nghiệp, từng ngành nghề và lãi suất phân biệt
theo từng thành phần kinh tế.
- Thời kì từ 6/1992 đến 1995: Giai đoạn thực hiện cơ chế lãi suất thực dương, lãi
suất cho vay bình quân cao hơn lãi suất tiền gửi bình quân, lãi suất tiền gửi bình
quân cao hơn tỷ lệ lạm phát. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể thời kì
trước được thay thế bằng khung lãi suất (lãi suất cho vay tối đa và lãi suất tiền gửi
tối thiểu), trong phạm vi khung lãi suất của NHNN, các TCTD được phép ấn định
các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể phù hợp với đặc thù hoạt động kinh
doanh và cung cầu vốn từng thời điểm. Cơ chế lãi suất thời kì này thực sự phát huy
vai trò tự nhiên vốn có của nó là đòn bẩy kinh tế, góp phần kiềm chế lạm phát, duy
trì tăng trưởng kinh tế và đảm bảo lợi ích cho cả người gửi tiền, người vay và
NHTM kinh doanh có lãi.
- Thời kì từ năm 1996 đến tháng 7/ 2000: Thời kì tiếp tục chính sách lãi suất thực
dương nhưng được nới lỏng hơn thời kì trước đó, bằng việc thực hiện cơ chế trần lãi
suất cho vay, có áp dụng một số mức trần khác nhau cho khu vực thành thị, nông
thôn hoặc các loại hình TCTD trong thời hạn nhất định. Lãi suất tiền gửi bắt đầu
được tự do hoá. Cùng với cơ chế tín dụng thương mại, các TCTD còn thực hiện cơ
chế tín dụng ưu đãi thông qua chính sách lãi suất, đối với các đối tượng chính sách
xã hội theo chỉ đạo của chính phủ.
- Thời kì từ tháng 8/2000 đến 30/5/2002: NHNN đã chuyển từ cơ chế điều hành lãi
suất theo trần sang cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt
Nam và cơ chế lãi suất thị trường có quản lí đối với lãi suất cho vay ngoại tệ, phù
hợp với luật NHNN và luật các TCTD. Đặc biệt từ tháng 6/2001, cơ chế điều hành
lãi suất ngoại tệ được tiếp tục đổi mới một bước quan trọng, với việc bỏ quy định về
biên độ lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ, lãi suất cho vay đô la Mỹ nói riêng và cho
vay ngoại tệ nói chung đã hoàn toàn được tự do hoá. Các TCTD ấn định lãi suất cho
vay bằng đô la Mỹ theo thoả thuận với khách hàng, dựa trên cơ sở lãi suất thị
trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ ở trong nước. Cơ chế lãi suất
tín dụng thời kì này là bước tiến quan trọng trong quá trình tự do hoá lãi suất, đáp




ứng đòi hỏi của nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập quốc tế. Cơ chế lãi suất
tái chiết khấu của NHNN đối với các TCTD cũng dần được đổi mới từ cho vay trực
tiếp nhằm bổ xung nguồn vốn lưu động cho TCTD sang cho vay tái cấp vốn, thực
hiện vai trò NHNN là người cho vay cuối cùng. Lãi suất cho vay tái cấp vốn được
điều chỉnh tăng hay giảm phù hợp với nội dung và mục tiêu của chính sách tiền tệ
từng thời kì có tác động một cách gián tiếp lên lãi suất thị trường tiền tệ.
Tổng quan nhận xét rằng, trong 15 năm đổi mới vừa qua, cơ chế lãi suất của
NHNN đã được hoạch định và điều hành theo định hướng tích cực, nới lỏng từng
bước hướng tới tự do hoá, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội trong nước, mức độ
hội nhập của nền kinh tế nước ta với thị trường tài chính khu vực và thế giới. Cơ
chế điều hành lãi suất ngày càng trở nên linh hoạt hơn, bám theo cung cầu vốn thị
trường, dần dần mở rộng quyền chủ động xác định lãi suất kinh doanh cho các
TCTD để tăng khả năng cạnh tranh nhưng vẫn đảm bảo sự kiểm soát và điều hành
của NHNN đối với lãi suất trên thị trường tiền tệ. Đi sâu vào cơ chế điều hành lãi
suất cơ bản, NHNN bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay của các TCTD đối với
khách hàng, chuyển sang xác định và công bố lãi suất cơ bản dựa trên việc tham
khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường của các NHTM áp dụng đối với khách
hàng có uy tín và một số các tiêu thức kinh tế vĩ mô khác. Mức lãi suất cơ bản được
cộng thêm một biên độ bằng số phần trăm tuyệt đối sẽ là giới hạn lãi suất tối đa cho
các TCTD được phép cho vay. Điểm khác biệt về nội dung đổi mới của cơ chế điều
hành lãi suất cơ bản khác với cơ chế điều hành lãi suất trước đó, kể cả cơ chế
điều hành lãi suất trần là, việc xác định một mức lãi suất dựa vào quan hệ cung cầu
vốn tín dụng trên thị trường, thông qua việc tính toán bình quân các mức lãi suất
huy động và cho vay của một số NHTM được chọn làm đại diện cụ thể là 15 ngân
hàng, đồng thời tham khảo cân nhắc thêm lãi suất trên thị trường liên ngân hàng,
lãi suất thị trường mở, lãi suất đấu thầu tín phiếu kho bạc và một số tiêu thức tăng
trưởng kinh tế, lạm phát, tỷ giá Mức lãi suất này làm cơ sở cho các tổ chức tín
dụng thực hiện cho vay. Rõ ràng là, nếu như cơ chế lãi suất trước đó chủ yếu được
điều hành theo ý thức chủ quan áp đặt, hành chính thì cơ chế lãi suất này đã thể




hiện một bước đổi mới cơ bản là NHNN đã điều hành lãi suất theo tín hiệu thị
trường, chú trọng đến cung cầu vốn tín dụng và mục tiêu của chính sách tiền tệ. Lãi
suất cơ bản cộng với một biên độ xác định trong từng thời kì, mặc dù biện pháp này
còn mang tính hành chính, nhưng sự can thiệp chỉ mang tính chất quy định về
nguyên tắc chung của NHNN và không quy định trực tiếp, cụ thể mức lãi suất cho
vay của các TCTD. Việc điều chỉnh mức lãi suất cơ bản hàng tháng một cách linh
hoạt đã tạo điều kiện bám sát tín hiệu thị trường, cung cầu vốn tín dụng, đáp ứng
mục tiêu chính sách tiền tệ, đảm bảo sự kiểm soát của NHNN trên thị trường tiền
tệ. Tuy nhiên, để phù hợp với cơ chế thị trường ngày càng phát triển và hoàn thiện ở
nước ta thì cơ chế lãi suất cần phải thay đổi sao cho phù hợp với thị trường.
- Từ 30/ 5/ 2002 đến nay: Ngày 30/ 5/ 2002, Thống đốc NHNN Việt Nam đã ban
hành quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả
thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của TCTD đối với
khách hàng. Rõ ràng đây là một bước chuyển đổi quan trọng, mạnh mẽ và cần thiết
trong chính sách tín dụng, phù hợp với nguyên tắc thị trường, nhằm đảm bảo nguồn
tài chính được sử dụng và phân bổ một cách hiệu quả hơn. Đến đây thì lãi suất thực
sự đã được tự do hoá, được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn và bộc lộ
những vai trò vốn có của nó.
1.4. Sự cần thiết phải chuyển đổi lãi suất theo cơ chế thị trường
Thực tiễn việc hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ thời gian qua cho
thấy chính sách lãi suất là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ. Sự vận
động, thay đổi chính sách lãi suất có tác động nhanh và mạnh đến thị trường tiền tệ,
tín dụng tạo hiệu ứng rõ rệt đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng và tác động
đối với nền kinh tế. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, lãi suất chưa được sử
dụng một cách đầy đủ như một đòn bẩy kinh tế nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế,
chuyển sang cơ chế thị trường, lãi suất phát huy mạnh mẽ vai trò vốn có của nó với
tư cách là giá cả của vốn và chịu tác động của quan hệ cung cầu.
1.4.1. Cải cách kinh tế theo hướng thị trường đòi hỏi phải cải cách lãi suất




Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đề ra
chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, một nội dung đổi mới có tính chất then chốt là chuyển hệ
thống ngân hàng từ 1cấp sang 2 cấp. Quá trình đổi mới bắt đầu từ 3/ 1988 theo nghị
định 53/ NĐ của chính phủ và chính thức từ pháp lệnh ngân hàng 5/ 1990. Qua hơn
10 năm thực hiện đổi mới kinh tế toàn diện, các chính sách về giá cả (giá cả hàng
hoá, tỷ giá hối đoái) ở Việt Nam đã được cải cách đáng kể theo định hướng thị
trường, theo định hướng đó cơ chế bao cấp ở khu vực ngân hàng cũng từng bước
được xoá bỏ và thay vào đó là chế độ hoạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường.
Hệ thống ngân hàng 2 cấp được xác lập, NHNN thực hiện chức năng NHTƯ và
quản lí nhà nước về tiền tệ. Hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện chức năng
NHTM là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng theo cơ chế thị trường, lãi suất
ngân hàng với tư cách là một loại gía cũng từng bước được chuyển đổi theo hướng
thị trường. Từ lãi suất thực âm chuyển sang lãi suất thực dương với các mức khống
chế trần sàn lãi suất cho vay, loại bỏ dần các mức khống chế và giai đoạn gần đây
nhất là cơ chế lãi suất cơ bản. Thực chất cơ chế này cũng vẫn còn là một hình thức
lãi suất trần và trong giai đoạn hiện nay cơ chế này đã không còn phù hợp nữa do
những hạn chế của nó vì vậy cần phải có cơ chế lãi suất mới phù hợp hơn.
Những hạn chế của cơ chế lãi suất cơ bản trong nền kinh tế thời gian qua
được bộc lộ như:
- Sau gần hai năm áp dụng cơ chế lãi suất cơ bản từ tháng 8/ 2000 đến tháng 6/
2002 cho thấy, biên độ 0,3% đối với cho vay ngắn hạn và 0,5% đối với cho vay dài
hạn là khá rộng cho các TCTD định đoạt mức lãi suất cho vay, kể cả việc cộng thêm
các khoản chi phí liên quan đến khoản vay mà không vượt quá biên độ tối đa cho
phép. Song thực tế thấy rằng biên độ lãi suất này chỉ phù hợp với cácTCTD Nhà
Nước và các khoản tín dụng khu vực thành thị. Còn đối với các TCTD cổ phần và
các khoản tín dụng khu vực nông thôn là chưa thoả đáng cụ thể:
Bảng1.1: Lãi suất cơ bản đơn vị:% tháng




Thời gian
Lãi
suất
cơ bản

Trần lãi suất cho vay

Lãi suất cho
vay bình quân
khu vực thành
thị
Lãi suất cho
vaybìnhquân
khuvực nông
thôn
Cho vay
ngắn hạn
Cho vay
dài hạn
8/ 00 đến 2/ 01 0,75 1,05 1.25 0,775 1,1
3/ 2001 0,725

1,025 1,225 0,75 1,1
4/ 2001 0,70 1,0 1,20 0,75 1,05
5/ 01 đến 9/ 01 0,65 0,95 1,15 0,75 1,05
10/01đến 5/ 02 0,60 0,9 1,10 0,725 0,9
Nguồn số liệu: Tạp chí ngân hàng số 7/2002
Theo bảng số liệu ta thấy lãi suất cho vay bình quân cả ngắn hạn và dài hạn
của khu vực thành thị ngày càng giảm và luôn cách xa lãi suất trần. Còn khu vực
nông thôn lãi suất cũng ngày càng giảm tuy có áp sát với lãi suất trần. Điều này đã
cho thấy vai trò của biên độ nhằm xác định trần lãi suất cho vay tối đa của các
TCTD đã không còn ý nghĩa đối với xu hướng ngày càng giảm lãi suất cho vay
trong nền kinh tế trong giai đoạn này.
- Trong tình hình phát triển kinh tế hiện nay nhu cầu vốn của nền kinh tế để đầu tư
vào các phương án, dự án sản xuất kinh doanh là rất lớn. Điều này đòi hỏi các
TCTD phải đẩy mạnh việc khai thác vốn bằng nhiều cách để đáp ứng nhu cầu tín
dụng để đầu tư phát triển kinh tế. Một trong những biện pháp tăng huy động vốn
của các tổ chức tín dụng là tăng lãi suất huy động vốn. Nhưng muốn tăng lãi suất
huy động (lãi suất đầu vào) thì cũng phải tăng lãi suất cho vay thì mới đảm bảo
yêu cầu kinh doanh không bị lỗ của các TCTD. Trong khi đó lãi suất cho vay lại bị
ấn định bởi lãi suất trần tối đa, như vậy cho dù lãi suất huy động không bị quy định
mức trần tối đa nhưng các TCTD vẫn không thể tăng lãi suất vượt mức lên được do
như vậy thì chênh lệch lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra không đảm bảo TCTD
kinh doanh có lãi. Lãi suất huy động và lãi suất cho vay là một vấn đề thống nhất,
đã tạo quyền tự do xác định lãi suất huy động, thì cũng cần tạo quyền tự do xác




định lãi suất cho vay cho các TCTD, đó là sự cần thiết cho quá trình tổ chức kinh
doanh của các TCTD, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
-Lãi suất cơ bản với bản chất là quy định mức lãi suất trần cho vay chủ yếu nhằm
mục tiêu khống chế các TCTD không được cho vay với lãi suất cao vượt quá mức
ảnh hưởng đến thị trường tiền tệ và khả năng vay vốn của doanh nghiệp. Trong nền
kinh tế thị trường, các TCTD sẽ ngày càng cạnh tranh quyết liệt thông qua việc hạ
lãi suất cho vay đến mức thấp nhất có thể được để thu hút khách hàng. Các TCTD
không dễ độc quyền, tự do tăng lãi suất cho vay khi không được thị trường và khách
hàng chấp nhận. Điều này chứng tỏ việc khống chế trần lãi suất cho vay sẽ không
còn là vấn đề quan trọng trong khi nền kinh tế thị trường đã đặt các TCTD vào
cuộc cạnh tranh để tìm kiếm khách hàng và tăng thị phần tín dụng trong nền kinh tế.
- Đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn ngoài những khoản tín dụng chính sách
ưu đãi đã được chính phủ có quy định cụ thể các mức lãi suất thấp với các khoản
cho vay chỉ định sẽ là những khoản tín dụng thương mại cần được thực hiện theo lãi
suất thị trường. Cơ chế lãi suất thị trường này chính là sự thoả thuận giữa TCTD và
người vay vốn để đảm bảo yêu cầu kinh doanh của cả hai bên. Trên thực tế ở nhiều
vùng nông thôn người vay cần được hỗ trợ nhiều hơn về khối lượng, thời hạn, thủ
tục thuận lợi vay vốn hơn là vấn đề lãi suất. Sự chủ động về lãi suất tín dụng sẽ vừa
tạo sự chủ động kinh doanh của các TCTD vừa tạo cơ hội tiếp cận nhiều hơn các
khoản tín dụng trên thị trường chính thức của các tổ chức kinh tế và các hộ nghèo
vay vốn. Bởi thực tế lãi suất trên thị trường chính thức của các TCTD còn thấp hơn
nhiều các khoản tín dụng nặng lãi vẫn phổ biến ở các khu vực nông thôn hiện nay.
- Từ thực tế thực hiện cơ chế tự do hoá lãi suất cho vay bằng ngoại tệ cho thấy gần
hai năm thực hiện cơ chế này, tỷ giá và thị trường ngoại hối không những vẫn đảm
bảo ổn định mà còn tạo điều kiện cho các TCTD chủ động ấn định lãi suất huy động
và cho vay phù hợp với nhu cầu vốn ngoại tệ, biến động lãi suất thị trường quốc tế,
tăng khả năng huy động vốn, cho vay bằng ngoại tệ, nhất là cho vay đầu tư trung
dài hạn.




Từ những lí do trên cho thấy xu thế khách quan đòi hỏi của thị trường bỏ cơ chế
điều hành lãi suất cơ bản thay bằng cơ chế lãi suất thoả thuận.
1.4.2. Cải cách khu vực ngân hàng theo định hướng thị trường đòi hỏi cải
cách lãi suất
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới toàn diện hệ thống ngân hàng. Nội dung
chủ yếu trong chương trình cải cách ở hệ thống ngân hàng theo định hướng thị
trường là
- Cải cách NHNN về công cụ chính sách, mô hình tổ chức nhằm nâng cao
năng lực điều hành chính sách tiền tệ và kiểm soát thị trường tài chính của NHNN
trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển và hội nhập quốc tế.
- Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại nhằm đảm bảo tính an toàn, lành
mạnh và hiệu quả trong hoạt động, góp phần tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững
trong những năm tới.
Cải cách NHNN và chính sách tiền tệ:
Từ những năm 90 đến nay NHNN đã từng bước đưa ra các công cụ gián tiếp
thay thế các công cụ trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ, vai trò quản lí nhà
nước đã được tăng cường. Nhưng nhìn từ góc độ về chính sách tiền tệ trong mục
tiêu trung gian chỉ có thể chọn mục tiêu là M (tổng lượng tiền cung ứng) hoặc i
(mức lãi suất) vì hai mục tiêu này có mâu thuẫn, nếu cố định mức cung tiền thì phải
thả nổi lãi suất, nếu cố định lãi suất thì NHTƯ phải thường xuyên thay đổi mức
cung tiền tức thả nổi cung tiền mà điều này là không thuận lợi. Nếu cố định cả mức
cung tiền và lãi suất thì nền kinh tế sẽ cứng nhắc, không linh hoạt. ở Việt Nam trong
thời gian qua đã đặt ra cố định bao gồm cả lãi suất và lượng tiền cung ứng tức là ở
mục tiêu trung gian chọn cả hai mục tiêu là lãi suất và lượng tiền cung ứng, đây là
điều bất hợp lí trong điều hành chính sách tiền tệ mà NHNN cần thay đổi nếu chọn
cung tiền làm mục tiêu trung gian thì lãi suất cần phải thả nổi.
Cải cách hoạt động của ngân hàng thương mại theo hướng thị trường:
Tại các nước đang phát triển như Việt Nam có thị trường chứng khoán chưa
phát triển thì các NHTM và các doanh nghiệp có quan hệ mật thiết đặc biệt là quan




hệ vay mượn vốn. NHTM là người cung ứng vốn theo những cách thức và điều kiện
nhất định các doanh nghiệp là người sử dụng tín dụng và là người trực tiếp tạo ra
của cải vật chất cho xã hội. Khi các ngân hàng không tự quyết định được việc ra
quyết định cho vay (điều kiện và lãi suất phù hợp với từng đối tượng) hoặc trong
điều kiện thiếu thông tin về doanh nghiệp thì sự phân bổ tín dụng trong nền kinh tế
sẽ có nguy cơ không hiệu quả và danh mục tín dụng của ngân hàng sẽ chứa nhiều
rủi ro.
Mặc dù từ năm 1990 các ngân hàng thương mại bắt đầu hoạt động theo
nguyên tắc thị trường, nhưng trên thực tế hình thức hỗ trợ, bao cấp cho các doanh
nghiệp nhà nước qua tín dụng ngân hàng vẫn tồn tại. Điều đó chứng tỏ quan hệ tín
dụng giữa hệ thống ngân hàng và doanh nghiệp chưa thực sự là quan hệ tín dụng
thương mại. Bản thân ngân hàng thương mại vẫn chưa tỏ ra chủ động kinh doanh
chưa phát huy cao tính độc lập. Việc chuyển đổi sang tín dụng thương mại với lãi
suất thị trường sẽ tăng cường khả năng hoạch toán kinh doanh, nâng cao hiệu quả
nguồn vốn xã hội. Mặt khác nếu tồn tại cơ chế bao cấp tín dụng trong khi các doanh
nghiệp nhà nước đang được cải cách theo hướng thị trường và thực hiện hoạch toán
kinh tế thực sự hơn thì sẽ dẫn đến sự bóp méo kết quả kinh doanh của các doanh
nghiệp.
Rõ ràng là khi quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp được
chuyển đổi theo hướng thương mại thì đòi hỏi cơ chế lãi suất thương mại. Các
NHTM với chức năng là huy động nguồn vốn từ các thành phần kinh tế và thực
hiện cho vay trên cơ sở phân tích, đánh giá doanh nghiệp. Các doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh trong điều kiện môi trường nhất định và do đó họ sẵn sàng chấp
nhận vay vốn với những mức nhất định trong khi đó NHTM cũng huy động được
một lượng vốn với những chi phí nhất định và với những điều kiện rủi ro nhất định
họ cũng sẵn sàng cho vay tới doanh nghiệp với một mức lãi suất có thể chấp nhận
được đủ để bù đáp những chi phí và rủi ro có thể sảy ra.
1.4.3 Xu thế hội nhập quốc tế đòi hỏi cải cách mạnh mẽ lãi suất




Xu thế hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay diễn ra nhanh hơn bao giờ
hết điều này dẫn đến thị trường tài chính mang tính toàn cầu. Chu chuyển vốn
không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà vượt ra ngoài danh giới ấy. Những
hạn chế về chu chuyển vốn quốc tế cũng đang ngày càng bị bãi bỏ. Việt Nam đã áp
dụng cơ chế lãi suất thoả thuận đối với ngoại tệ từ tháng 6/2001 tức là lãi suất ngoại
tệ biến động theo cung cầu ngoại tệ trong nước và tình hình thị trường tài chính
quốc tế trong khi lãi suất nội tệ ở mức cố định bị khống chế đã dẫn đến hiện tượng
điều chỉnh danh mục tài sản trong công chúng do hiệu ứng thu nhập. Trong trường
hợp lãi suất ngoại tệ tăng nên do diễn biến kinh tế trong nước và quốc tế thì dân
chúng sẽ chuyển sang đầu tư ngoại tệ và dẫn đến hiện tượng “chạy trốn” khỏi đồng
nội tệ mà hiện tượng này gọi là hiện tượng đô la hoá. Tình trạng này đã diễn ra ở
Việt Nam từ cuối năm 1998 và mạnh mẽ vào năm 2001 theo dõi hoạt động tiền gửi
bằng VND và ngoại tệ ở hệ thống ngân hàng thương mại ta thấy:


Bảng1.2: Tiền gửi tại các NHTM.
đơn v
ị nghìn tỷ VND
Năm 1999 200
0
200
0
200
0
2000 200
1
200
1
200
1
Tháng 12 3 6 9 12 3 6 8
1. Tiền gửi của khối doanh nghiệp
- Bằng VND 37,8 41,8 45,5 49,7 59,4 58,0 59,8 62,3
- Bằng ngoại tệ 21,2 23,1 24,3 25,3 25,2 30,1 32,8 35,1
Trong đó tiền gửi
ngoại tệ thanh toán
12,3 13,9 12,8 12,6 13,5 14,0 13,2 13,5
2. Tiền gửi của khối dân cư
- Bằng VND 26,6 30,6 30,9 31,2 29,9 35,6 35,9 35,1
- Bằng ngoại tệ 22,6 27,0 29,1 33,6 45,1 47,8 51,5 54,6

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét