Thanh Thảo,
nghĩa khí và cách
tân
CHU VĂN SƠN
Nghĩ cũng vui, cái duyên thơ Thanh Thảo - Chế Lan Viên thời chống
Mỹ có gì giông giống với Xuân Diệu - Thế Lữ thời tiền chiến. Khi vừa nhận đ-
ợc chùm thơ lạ kí tên Xuân Diệu gửi đến báo Ngày nay của Tự Lực Văn
Đoàn, mắt xanh của con- hổ- nhớ- rừng đã thấy ra chàng hoàng tử tơng lai của
Thơ mới rồi. Nhng chúa sơn lâm vẫn nán mai phục thêm chút (tất nhiên không
phải để xơi tái con mồi nh những con hổ khác!) nên cha vội lăngxê. Không lâu
sau, nhiều bài nữa đã liên tiếp gửi đến, tức thì Thế Lữ hoan hỉ loan báo về
Xuân Diệu bằng những lời trọng đại Loài ngời hãy hiểu con ngời ấy !. Xem
tiếp những hồi sau, ngời đời đã rõ : những gì diễn ra với Xuân Diệu đều y
chang tiên đoán của Thế Lữ. Còn Chế Lan Viên, bấy giờ đang trông coi trang
thơ ở tờ Tác phẩm mới của Hội Nhà Văn. Một hôm, đến tay ông bài thơ lạ
gửi ra từ chiến trờng. Thấy rõ là một bài thơ thật hay, thế mà chả hiểu sao, ông
lại nghĩ nó đau thơng quá, nên cũng không cho in, và cũng nán đợi. Thì ra,
những con hổ về già đều quá là thận trọng ! Một độ sau, vợt qua bao bom đạn,
một loạt bài mới của tác giả kia lại về đợc đến thủ đô. Đến lúc này, thì Chế
Lan Viên đã bạo tay làm phắt một việc xa nay cha từng làm, mà cũng cha từng
có : lăngxê hẳn một chùm cực sai quả, nhiều tới tận mời ba bài ! Ông u ái cá
nhân ? Ông u tiên chiến trờng ? Ông rộng tay với cánh trẻ ? Có thể thế, cũng
có thể không. Mà có khi chỉ đơn giản : phải làm đến thế ông mới đành, mới đã
cũng nên.
Thi đàn chống Mĩ, từ đấy, có Thanh Thảo.
1. Lấp lánh chất ngời
Tôi đã hỏi Thanh Thảo, cái bài đầu lòng duyên may phận rủi đó là gì.
Mới hay là bài Thử nói về Hạnh Phúc. Đọc nó, cứ tiếc, giá hồi ấy Chế Lan
Viên đừng e ngại quá, cứ mạnh dạn in thì còn đã biết mấy! Vì sao ? Vì nó
hay. Vì nó đau thơng mà rắn rỏi ! Và vì ngay từ đó, Thanh Thảo đã là Thanh
Thảo rồi. Nghĩa là quan niệm nhân sinh, quan niệm thơ, lối tạo hình, giọng
điệu, nhất là mối trăn trở của một đời thơ chừng nh đã định rồi. Tôi rất chú ý
cái đoạn :
1
hạnh phúc nào cho tôi
hạnh phúc nào cho anh
hạnh phúc nào cho chúng ta
hạnh phúc nào cho đất nớc
những câu hỏi cha thể nào nguôi đợc
mảnh đất hôm nay bè bạn chúng ta nằm
nơi máu đổ phải sống bằng thực chất
nơi cao nhất thử lòng ta yêu đất nớc
thử lòng ta chung thuỷ vô t
nơi vỡ vụn dới chân ta những mảng đêm hèn nhát
những gơng mặt ngẩng lên lấp lánh chất ngời.
Có ngời bảo Thanh Thảo là nhà thơ công dân, chỉ trăn trở chuyện bổn
phận với dân nớc, thời cuộc. Cũng đúng thôi. Cũng vẻ vang thôi. Những câu
kia có thể làm bằng. Nhng e cha thật trúng. Chính những tiếng thơ đầu đời đó
còn chứa bằng chứng khác. Tôi quyết rằng, trớc Thanh Thảo cha có thi sĩ nào
viết ra cái câu cuối kì kì vậy. Ngời khác có thể chỉ dừng ở gơng mặt ngẩng
lên lấp lánh. Với họ, thế là đủ, là kiệm lời. Đã lấp lánh, lại còn chất ng-
ời, thì lộ quá, thừa quá. Nhng Thanh Thảo thì cứ phải là lấp lánh chất ngời.
Thậm chí, cứ dứt khoát là Những gơng mặt ngẩng lên lấp lánh chất ngời.
Chữ chất ngời không chịu nằm yên ở tầng hàm ngôn. Nó cứ trồi lên, cứ nhất
thiết phải hiển ngôn. Sao thế ? Nó là nhãn tự của câu chăng ? Không. Không
phải nhãn tự của một câu thơ. Mà là nhãn tự của một đời thơ ! Chẳng phải thế
sao, chất ngời chính là nỗi trăn trở, niềm day dứt cả đời Thanh Thảo ! Khi còn
cầm súng, cũng thế. Khi chỉ chuyên cầm bút thôi, cũng thế : Học làm ngời
cao hơn núi non(Những khoảng sáng khác nhau), tôi yêu / chất ngời đầu
tiên / những giọt sơng lặn vào lá cỏ / qua nắng gắt qua bão tố / vẫn giữ lại
cái mát lành đầy sức mạnh / vẫn long lanh bình thản trớc vầng dơng (Bùng
nổ của mùa xuân), mong một ngày hiện rõ / chất thật mỗi con ngời, ta sẽ
trở lại / con ngời dù biết con đờng kia dài hơn mọi con đờng, phải trả
giá cho mỗi phẩm chất ngời / dù rất nhỏ (Đêm trên cát) Rõ ràng, mối bận
tâm của thi sĩ này không bó hẹp ở chất công dân, mà rộng lớn hơn, là chất ng-
ời
1
. Căn cốt của chất công dân là chủ nghĩa yêu nớc, căn cốt của chất ngời là
chủ nghĩa nhân văn. Nhân văn là tình yêu lớn, là chất nhân loại phổ quát của
con ngời. Trong tình cảnh đất nớc bị đe dọa, có thể chất công dân là phần nổi
bật trong con ngời, thậm chí, đồng nhất với chất ngời. Song, trở về đời thờng
muôn thuở, chất công dân chỉ là tử số trên mẫu số lớn là chất ngời.
1
Thanh Thảo còn nói đến "chất ngời" bằng nhiều ẩn dụ, ví nh "chất gạo" : Những hạt gạo trên sàng /Sàng
qua lửa qua bom / Qua đắng cay còn nguyên chất gạo (Những ngôi sao của mẹ)
2
Nh thế, quan tâm đến chất ngời viết hoa là quan tâm trực tiếp đến vẻ đẹp
nhân văn. Là tiếp cận con ngời trên tinh thần nhân văn chủ nghĩa. Thêm một
thi sĩ chân chính xuất hiện là một tinh thần nhân văn mới nào đấy lên tiếng, đó
là qui luật. Quy luật ấy không ngoại trừ Thanh Thảo.
*
Nhng, có thi sĩ nào lại chẳng nói đến chất ngời, dù nhiều dù ít. Dừng ở
hai chữ chất ngời rất chung đó thôi, làm sao đủ hình dung Thanh Thảo ! Vậy
là cần đi tiếp : chất ngời mà Thanh Thảo quan niệm là gì ? Cũng ngay trong
thi phẩm đầu tay kia, dờng nh đã có câu trả lời :
chúng tôi không muốn chết vì h danh
không thể chết vì tiền bạc
chúng tôi lạ xa với những tin tởng điên cuồng
những liều thân vô ích
đất nớc đẹp mênh mang
đất nớc thấm tự nhiên đến tận cùng máu thịt
chỉ riêng cho Ngời, chúng tôi dám chết !
đêm nay ai cầm tay nhau vào tiệc cới
ai thức trắng lội sình
ai trầm ngâm viết những câu thơ thông minh
ai trả nghĩa đời mình bằng máu
màu đỏ thật không ồn ào
máu lặng lẽ ớt đầm ngực áo
Day dở mà quyết liệt đến thế này, chỉ có thể là tiếng nói khi cuộc chiến
đã vào hồi khốc liệt nhất. Không còn bồng bột nông nổi, không thể đơn giản
vô t nh hồi đầu. Ngời lính quý vô ngần sinh mệnh bản thân. Nhng vẫn sẵn
sàng xả thân. Xả thân lặng lẽ. Không phải vì vinh quang hay cuồng tín. Chỉ vì
nghĩa lớn. Chỉ để trả nghĩa đời mình bằng máu, thế thôi. Nghĩa, đó là lẽ
sống, lẽ chết, lẽ đời của họ. Nghĩa khí là bản tính, là phẩm giá, là sức mạnh
của họ. Mẫu số chung của chất ngời ở những con ngời ấy chính là nghĩa khí.
Bởi thế, tuy là giải phóng quân đấy, nhng gọi họ là chiến sĩ e không hợp.
Phải gọi là nghĩa sĩ. Nghĩa sĩ mới là vẻ đẹp riêng của ngời lính Thanh Thảo.
Mà không chỉ có nghĩa sĩ của thời đại mới. Rồi đây, anh còn miệt mài viết về
cả những nghĩa sĩ Cần Giuộc (Những nghĩa sĩ Cần Giuộc), nghĩa sĩ Ba Tơ
(Bùng nổ của mùa xuân), về Trơng Công Định, Nguyễn Trung Trực (Cỏ vẫn
mọc), về Nguyễn Đình Chiểu (Trò chuyện với nhân vật của mình), Cao Bá
3
Quát (Đêm trên cát) Họ đều là những nghĩa quân, những ngọn nghĩa kì,
những nhà thơ tiết nghĩa. Họ là nghĩa khí muôn năm của dân tộc này. Viết về
tâm t mộ nghĩa, chí khí dấy nghĩa của ngời xa và cả ngời nay là cảm hứng lớn
của đời Thanh Thảo. Với anh, viết nh thế là dấy nghĩa mà cũng là trả nghĩa.
Cho nên, sẽ chẳng có gì là quá lời khi bảo rằng : viết về nghĩa khí và viết bằng
nghĩa khí là một mãnh lực của ngòi bút Thanh Thảo.
2. Lửa và Nớc
Tuy nhiên, Thanh Thảo không phải là nhà đạo đức. Trớc sau, anh là một
thi sĩ. Thơ không thể là những giáo huấn về chất ngời, dù là về nghĩa khí. Thơ
phải là một thế giới tinh diệu thăng hoa từ điệu hồn thi sĩ. Nghĩa khí là tinh
huyết nuôi dỡng cõi thơ Thanh Thảo, cũng là tinh khí tụ kết từ cõi thơ ấy.
Song, nghĩa khí đã hoá sinh thành muôn hình sắc sống động, biến hoá tinh vi
và đan dệt với nhau tạo nên cả một thế giới thi ca. Mà một thế giới thi ca, xét
đến cùng, là sự chuyển hoá của ba hệ thống hình tợng căn bản : hình tợng cái
tôi, hình tợng ngời tình và hình tợng thế giới - chúng là tam vị mà nhất
thể. Đồng thời, thế giới sống động ấy cũng thờng kết tinh vào những biểu t-
ợng căn bản nào thôi. Trong cõi thơ Thanh Thảo, chất ngời nghĩa khí đợc kết
tụ từ những nguyên khí nào, hiển hiện trong những biểu tợng nào ? Ay là :
Lửa và Nớc ! Từ những yếu tính của tự nhiên, chúng đã đầu quân vào thơ, trở
thành những hình tợng, biểu tợng thi ca, không chỉ của riêng Thanh Thảo. Nh-
ng Thanh Thảo đã tựa hẳn vào hai biểu tợng đó để suy nghiệm và in vào chúng
những dấu ấn riêng. Trong t duy nghệ thuật của anh, Lửa và Nớc là tợng hình
kì diệu nhất của những vẻ đẹp Ngời, thậm chí, sự tơng sinh của Lửa và Nớc đã
làm nên mỗi cá thể ngời. : Giọt nớc nào đã khởi sự đời ta,Mỗi chúng mình
là giọt nớc / Uống đất bùn và mặt trời long lanh, Ngọn lửa trong bàn tay
soi tìm đến ngọn nguồn, Những thăng trầm bao năm tháng chiến khu /
Không giập nổi ngọn lửa đằm trong mắt, Ngọn lửa riêng bền bỉ suốt đời
mình, gơng mặt sốt soi vào vẫn sáng / bùng tự nhiên nh lửa trảng dầu,
Thế hệ chúng tôi bùng ngọn lửa chính mình / soi sáng đờng đi tới Sẽ
không thể thấy đợc quan niệm về chất ngời của thi sĩ này, nếu không giải mã
những hình ảnh ấy.
Trớc tiên, Lửa và Nớc hoá sinh thành cặp phẩm chất Can đảm và Trung
thực. Trung thực và can đảm là nguyên khí của những con ngời nghĩa khí. Đây
là những phẩm chất cốt yếu để mỗi cá thể ngẩng cao đầu làm ngời. Không
trung thực và can đảm, làm sao dám là mình, dám hết mình, dám tranh đấu với
phờng bất nghĩa, dám xả thân cho lẽ phải cuộc đời ? Trong chiến tranh, can
đảm và trung thực là phẩm chất cao nhất của một công dân ; trong đời thờng,
can đảm và trung thực là phẩm chất quý nhất của một con ngời. Nó là nơi gặp
gỡ hoà điệu của cả chủ nghĩa yêu nớc và chủ nghĩa nhân văn. Không phải
4
ngẫu nhiên, nét sáng nhất ở những nhân vật Thanh Thảo, bao giờ cũng là can
đảm và trung thực, dù họ là ai : anh lính giải phóng bớc vào tuổi hai mơi hay
anh du kích bng biền gan góc, là ngời Thợng cùng nhóm lửa Ba tơ hay ngời
Khơ me trụ bám địa hình Nam bộ, là Nguyễn Trung Trực thủ lĩnh nghĩa quân
hay Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ địch khái, Cao Bá Quát nhà thơ dấy nghĩa.
Lúc họ dấy nghĩa là lúc vùng tỉnh thức, những đợt sóng đột ngột trào lên, lớt
qua mặt một triều đình khiếp đảm, thành ngọn lửa bùng trong đám lá tối
trời, thành nớc rực cháy Bằng can đảm và trung thực, họ dám xả thân vì
nghĩa lớn : ta xin đứng lại / chiến đấu nh một con ngời / chặn đờng nỗi sợ /
và chết nh một con ngời / đã vợt lên nỗi sợ. Cũng chẳng phải ngẫu nhiên, lúc
đợc hỏi về đức tính hàng đầu của một ngời làm thơ chân chính - kẻ mang sứ
mệnh phát ngôn cho tự do và sự thật, cho đại nghĩa của nhân gian - Thanh
Thảo đã không đắn đo gì mà xác quyết : đức tính đầu tiên là đừng nói dối
đức tính thứ hai là đừng hèn
2
. Cũng dĩ nhiên, ở chiều ngợc lại, anh và các
nhân vật của anh sẽ ghét cay ghét đắng sự đớn hèn, khiếp nhợc, thói nô lệ,
cũng nh sẽ dị ứng gay gắt với những kẻ dối trá ba hoa chích choè đánh quả
loanh quanh, những thằng bất nghĩa, cặn bã : có những lúc ra về lòng rỗng
không / vì phải gặp trong cơ quan một thằng cặn bã / tôi chào đất nớc tôi.
Buồn quá / đất nớc cùng tôi lặng lẽ trên đờng. Yêu và ghét là hai phía của
cùng một thái độ, hai mặt biện chứng của một t tởng nghệ sĩ.
Tiếp tục cuộc hoá sinh của mình, cặp nguyên tố Lửa và Nớc còn hoá
thân thành bao chất ngời phong phú khác : Nhiệt huyết và Nhân hậu, Dữ dội
và Âm thầm, Quyết liệt và Tơi mát Này là hình tợng ngời tình, đối ảnh riêng
t của cái tôi thi sĩ. Trong các trang thơ của anh, nàng cũng là hiện thân sống
động và diệu kì của Lửa và Nớc với thân hình em trong sáng tựa đất đai /
nơi thu hút màu xanh và ngọn lửa, với ngọn lửa chìm trong núm vú hồng
hồng, khiến ngời thơ kinh ngạc : anh cha thấy một dòng sông nào khác /
âm thầm mà dữ dội nh em. Này là hình tợng Nhân Dân, một hình tợng tổng
thể, hiện thân lớn lao nhất cho quan niệm riêng về chất ngời của Thanh
Thảo :Tôi cha biết có nơi nào trên trái đất / ánh mặt ngời lại dịu mát nh nơi
đây Tôi cha biết có nơi nào trên trái đất / ánh mặt ngời lại mãnh liệt nh
nơi đây Thế đấy, Nóng và Lạnh, Dơng và Âm, Dữ dội và Âm thầm, Cuồng
nộ và Lặng lẽ, Bất khuất và Hiền hoà, Nồng nàn và Sáng trong, Mãnh liệt và
Dịu mát v.v đều là những hoá sinh khác nhau của Lửa và Nớc. Chúng kết tụ
nên nghĩa khí con ngời. Lớp lớp những con ngời nghĩa khí ấy đã làm nên đất
nớc này : đất nớc ơi đây hết thảy con Ngời / bóng họ toả mênh mang ngày
nắng gắt / họ đi nh gió họ đứng nh rừng / lúc nằm xuống họ hoá thành mặt
đất. Nói Lửa và Nớc là tợng hình hoặc là cội nguồn của những chất ngời
2
Thanh Thảo - Thơ kích thích cuộc sống (Trả lời một số câu hỏi của bạn đọc báo Tuổi trẻ), tháng 6.1987
5
trong thơ Thanh Thảo, có lẽ, đều phải. Nó là đầu này mà cũng có thể là đầu
kia của quá trình sinh hoá vậy.
Lửa có thể cháy trong Nớc, và Nớc có thể dào lên thành Lửa ! Có vẻ
nghịch lí. Nhng không thế, làm sao có thể tơng sinh ? Nét độc đáo của hình t-
ợng thế giới trong cõi thơ này cũng là sự tơng sinh không cùng của Lửa và N-
ớc. Ngời đọc luôn thấy đầy ắp những tơng sinh nh vậy ở tạo vật thiên nhiên
vây quanh con ngời trong thơ Thanh Thảo : Mặt trời lặn sâu trong nớc để
bùng lên đám lửa dữ dằn, khiến cho Nớc rực cháy và Dòng sông lửa
chảy dọc triền đêm tối, khiến thi sĩ ngỡ ngàng : Có phải trái tim dòng sông
bốc cháy. Ngời đọc cũng luôn thấy Qua mặt nớc lặng yên xanh ngắt / những
ngọn núi đang vùng vẫy chào đời / tiếng nổ vỡ những dòng nham thạch / vọt
lên từng khối lửa khổng lồ. Sinh hoá lạ kì tất nảy nở kết hợp tân kì : Mặt trời
trôi vùn vụt giữa dòng sông, đại dơng bốc cháy, những con sóng bình
minh, và nhất là những ngọn sóng mặt trời, khiến dòng nớc sáng loà nh
kiếm thép Thật lạ lùng, trong những hình sắc ấy, Lửa và Nớc lại bén duyên
và giao kết với nhau. Nhng, nói đến hệ thống hình ảnh biểu tợng làm nên thế
giới thơ Thanh Thảo, làm sao có thể quên đợc Cỏ. Cỏ đã đầu quân và ngay lập
tức làm vinh danh cho tập thơ đầu tay Dấu chân qua trảng cỏ, cỏ mọc lan tràn
mãnh liệt suốt dọc đờng thơ anh. Sống trong cõi thơ ấy với vô vàn biến hoá, cỏ
tợng trng cho sự đơn sơ, khiêm nhờng, dân dã. Cỏ tợng trng cho sự lãng quên,
bền bỉ. Cỏ là sự sống mãnh liệt, trờng tồn. Cỏ là biểu tợng của tuổi trẻ, tuổi
xuân. Cỏ tợng trng cho nhân hậu và nghĩa khí v.v Cỏ xanh đó là Thanh Thảo
3
. Không phải là con đẻ trực tiếp của Lửa và Nớc, nhng chính cuộc hoá sinh
lâu dài và sâu xa của những nguyên khí ấy đã sinh thành cỏ Thanh Thảo. Nó là
kết quả diệu kì từ những chuyển hoá bí mật giữa lửa và màu xanh, chuyển
hoá âm thầm của những giọt sơng lặn vào lá cỏ khiến lá non ơi lá non /
nhỏ mềm áp vào mặt ta nóng rực, để cuối cùng tạo nên thứ cỏ sắc mà ấm
lắm phải không em?. Bởi vì, theo cách hình dung của thi sĩ này, cỏ là một
hiện thân gần gũi của chất ngời : tôi yêu / chất ngời đầu tiên / những giọt s-
ơng lặn vào lá cỏ / qua nắng gắt qua bão tố / vẫn giữ lại cái mát lành đầy
sức mạnh / vẫn long lanh bình thản trớc vầng dơng. Ta hiểu vì sao, cỏ xanh
và con ngời nghĩa khí tựa nh một cặp hình tợng song sinh trong thế giới nghệ
thuật Thanh Thảo. Trong cõi thực, Lửa và Nớc tơng khắc nhiều hơn. Nhng
trong thơ Thanh Thảo, chúng lại tơng sinh với vô vàn biến hoá, làm nên một
bối cảnh, một môi sinh riêng cho những con ngời nghĩa khí tồn sinh và khẳng
định mình. Sẽ không ngoa nếu nói rằng : sự sinh hoá của chúng đã tạo nên cõi
thơ Thanh Thảo.
*
3
Anh tên thật là Hồ Thành Công, lấy Thanh Thảo làm bút danh của mình, ngoài các nguyên do này khác,
hẳn phải có niềm thiết tha đến ám ảnh dành cho cỏ.
6
Chúng ta đều biết, một thế giới nghệ thuật bao giờ cũng đợc sinh thành từ
một quan niệm nào đấy. Quan niệm đích thực của một nghệ sĩ chân chính
không chỉ xuất phát từ ý thức, mà còn có cội rễ rất sâu trong khí chất của thi
sĩ. Khí chất tìm đến với quan niệm theo một mách bảo riêng. Thành thử, quan
niệm lắm khi chỉ là sự phóng chiếu của khí chất ẩn chìm trong tạng thi sĩ đó
thôi. Thậm chí, thế giới hình tợng trong một cõi thơ, xét ra, cũng chỉ là những
hoá sinh sống động, theo kiểu nào đó, của những khí chất ẩn tàng trong cái tôi
kia. Đó là một quy luật của nghệ thuật. Vậy, đâu là khí chất của cái tôi Thanh
Thảo ?
Tôi chợt nhớ lại chừng mơi lăm năm trớc, trong một đêm Quy Nhơn cùng
bàn về thơ phú, thi hữu của Thanh Thảo là Nguyễn Trọng Tạo có ví anh với
giọt cồn, bởi một thích thú : khi nhỏ cồn lên da, ngời ta cảm thấy mát lạnh ;
song, lúc lạnh nhất chính là lúc nó nóng nhất. Tôi cũng cho cái tạng Thanh
Thảo đã đợc tạo bởi những khí chất phản trái của Lửa và Nớc nh thế. Ai đã gần
anh, thì không thể không thấy phía sau vẻ phớt lạnh, luôn luôn là sự quyết liệt
nồng nàn. Bao nấu nung sôi sục để tranh đấu cho lẽ phải thờng lặn khuất sau
một sắc diện lạnh nh không."Lặng yên trên bề mặt / gào thét dới chiều sâu,
núi lửa ẩn dới tầng tầng tuyết phủ. Lúc lạnh nh băng cũng là lúc nồng nh
lửa. Nghịch lý mời mơi ấy chính là hấp lực riêng của con ngời nghĩa khí này.
Nhng dù sao, tôi vẫn khoái hình ảnh giọt rợu mạnh hơn, bởi một lí sự : rợu
mới uống đợc chứ cồn làm sao uống ! Chả nhẽ Thanh Thảo chỉ là giọt cồn sát
trùng thôi !!!? Viện những điều ngang ngang ấy là vì tôi không chỉ nghĩ tới
Lửa và Nớc - những yếu tính của rợu - mà quan trọng hơn là những chuyển
hoá lạ lùng giữa chúng. Lửa và Nớc đã chng cất lẫn nhau nh thế nào mà nên r-
ợu ấy ? Những khí chất kia đã chng cất lẫn nhau thế nào mà nên cái tạng ấy ?
Cứ ngỡ tơng khắc, nào ngờ tơng sinh. Rợu đích là thứ Nớc giấu Lửa, là thứ
Lửa hoá thân vào Nớc để cùng đem những nồng nàn say sa thấm vào tâm can,
tâm huyết và tâm hồn. Thanh Thảo chẳng đã từng ý thức về cái tôi ấy : Li rợu
trong hồng lên cùng kí ức / uống đi anh ngọn lửa của mình. Bởi vậy, tôi tin
Thanh Thảo là rợu mạnh, không phải cồn. Chất nghĩa khí nồng nàn chính là r-
ợu mạnh của tâm hồn Thanh Thảo. Nghĩa khí tan thấm vào thế giới nghệ thuật
kia, từ vĩ mô đến vi mô, suy cho cùng, vâng suy cho cùng, khởi nguyên từ
những khí chất đó của cái tôi Thanh Thảo. Theo một lối đi vốn bí ẩn của cõi
tâm, Lửa và Nớc đã khởi phát từ khí chất mà len lỏi vào quan niệm, rồi sau
những hôn phối âm thầm trong tâm thức thi ca mà sinh thành cả một thế giới
nghệ thuật muôn vẻ.
*
Nếu sự mô tả nghệ thuật của một thi sĩ bao giờ cũng bị chi phối bởi quan
niệm riêng về cái đẹp của anh ta, thì xem ra, sự tơng sinh Lửa - Nớc này đã
7
xâm nhập cả vào quan niệm về cái đẹp của Thanh Thảo. Là một thi sĩ có ý
thức sâu sắc về thế hệ mình, về nghệ thuật của mình, Thanh Thảo không
ngừng suy ngẫm để đúc kết thành những châm ngôn, tuyên ngôn, trớc hết cho
ngòi bút của mình. Cả những suy ngẫm khôn nguôi về nỗi đời, lẽ đời, cả
những chiêm nghiệm khôn cùng về cái đẹp, nghệ thuật. Bài ca ống cóng là
một tuyên ngôn rất sớm. Ngời đọc đã nhận ra ngay tuyên bố chính thức về cái
đẹp riêng của chàng thi sĩ trẻ : Bài hát của hôm nay / Thô sơ mà hực sáng /
Mang lẽ đời đơn giản / Nói đợc tới ngày mai. Thô sơ mà hực sáng là một sự
hài hoà
4
. Thô sơ mà hực sáng chính là cái đẹp Thanh Thảo. Nó sẽ âm thầm
dẫn dắt anh tìm đến với những vẻ đẹp sáng tiềm ẩn ngay trong những gì thô
sơ, giản phác, bình dị, mộc mạc. Nó sẽ lặng lẽ mách bảo cho ngòi bút của anh
những điểm nhấn, điểm dừng khi sáng tạo từng vẻ đẹp thơ. Nó là la bàn vô
hình trong hành trình sáng tạo của Thanh Thảo. Trong thơ anh, ngời ta thấy vẻ
đẹp sáng có một vị thế chủ đạo. Gồm cả sáng rực(của lửa) và sáng
trong(của nớc). Có phải Lửa và Nớc (với mọi ý nghĩa của nó) đã tìm cách
giao hoà với nhau mà tạo nên dạng kết tinh tuyệt vời nhất của chúng là những
vẻ lấp lánh, long lanh ? Và có phải đó chính là lúc nớc muốn động lên ánh
lửa, còn lửa đang tĩnh tâm trong sắc nớc ? Bạn cứ đọc mà xem, chẳng phải
lấp lánh, long lanh với những biến thể khác nhau của nó (lung linh, lóng
lánh, óng ánh ) là chữ đã ám Thanh Thảo nhiều nhất hay sao ? - lung linh g-
ơng mặt ngời thơng, Những gơng mặt ngẩng lên lấp lánh chất ngời, Ng-
ớc nhìn mút mắt khoảng trời long lanh, Tiếng cời trẻ con nh hòn bi ve
lóng lánh, Đôi khi dới vết bánh xe / có những hạt ngọc / tuổi thơ lấp lánh
qua đám bụi, Tiếng ve thức giấc / long lanh ánh ngày, buổi sáng những
trái dừa long lanh chùm ngọc bích,Giọt nớc mắt vầng trăng / long lanh
trong đáy giếng, Cây ngời sáng long lanh nh hồi chuông, Lem luốc niềm
vui lóng lánh vẩy cá, Chim sẻ ơi từ đâu đến đậu ban công nhà ta lung linh
nh giọt nớc, Những sợi rác óng ánh dới mỏ chim, Nắng lấp lánh trên
những đài mây trắng, tiếng cu gù óng ả lùm tre Vẻ đẹp sáng nh thế đã
thành một thứ chuẩn mực điều khiển ngòi bút sáng tạo của Thanh Thảo. Có lẽ
thi sĩ đích thực nào cũng thấm thía rằng : cái đẹp thờng chỉ phát lộ trong
khoảnh khắc. Vì vậy, cần phải săn rình cái khoảnh khắc mà cái đẹp đột hiện,
để chớp lấy nh những phút xuất thần. Thanh Thảo cũng tin thế. Loé sáng một
lần, rồi ngắt đã là những khoảnh khắc dệt nên thế giới thơ Thanh Thảo. Trong
khoảnh khắc kia, cái thô sơ bất ngờ hực sáng, cái mộc mạc đột ngột
lung linh, vẻ lem luốc đột nhiên lóng lánh, những gơng mặt thân quen
bất chợt ngẩng lên lấp lánh chất ngời. Chính những khoảnh khắc nh thế đã
4
Theo tôi, về một mặt nào đó, cái đẹp chính là sự hoà hợp sống động của các đối cực. Nên, về quan hệ từ,
rất cần phân biệt : "và" chỉ quan hệ cộng ghép, trong đó những yếu tố có vẻ riêng rẽ tách bạch ; còn "mà"
mới là từ chỉ quan hệ hoà hợp, trong đó các yếu tố không đứng riêng rẽ mà tồn tại trong nhau, làm nên sự
hài hoà. Hài hoà thì gồm chứa cả hai chiều hoà hợp : thô sơ mà hực sáng, hực sáng mà thô sơ. Do đó, thô sơ
và hực sáng sẽ là không thật chuẩn.
8
ban tặng cho thi sĩ cái hạnh phúc đợc bắt gặp bao vẻ diệu kì trong thế giới này,
nhất là vẻ diệu kì nơi Gơng mặt sáng trong / nh tiếng chuông mùa thucủa
con ngời
Nh vậy, tôi đã lần theo sự dẫn dắt của Lửa và Nớc để tìm vào chất ngời
chất thơ Thanh Thảo. Nói cho cùng, ở ai chẳng có hai thứ nguyên khí ấy.
Con ngời ta khác nhau chỉ vì kiểu kết hợp của chúng ở từng cá thể không
giống nhau. Thanh Thảo có khí chất và diện mạo nh thế là bởi Lửa và Nớc đã
tơng khắc tơng sinh nh thế. Dầu sao, cũng cần thấy rằng, nếu Lửa là nóng và
sáng, Nớc là mát và trong, thì hình nh Lửa trong anh có phần bốc hơn. Thơ
Thanh Thảo có vẻ là thứ thơ vợng hoả. Nghĩa khí, chí khí, hào khí sung hơn so
với nhã khí, thanh khí, bình khí. Nó cho anh sở trờng trong việc tiếp cận cái
Cao cả. Có viết về cái Đời thờng, thì cũng tiếp cận trên tinh thần Cao cả. Dễ
hiểu vì sao, đọc thơ anh, ngời ta có cảm giác vẻ đẹp tráng mỹ thờng lấn vợt vẻ
đẹp u mỹ, tình cảm lớn trội hơn tình cảm nhỏ, tình đôi lứa luôn khiêm cung tr-
ớc tình đời. Đó âu cũng là một cái tạng thơ vậy.
3. Hỗn loạn và trật tự
Nh một nghệ sĩ chân chính, ngay từ những bớc đầu tiên lên thi đàn,
Thanh Thảo đã là một ngòi bút ham cách tân. Dù biết rằng phải đơng đầu trả
giá, song không thể nh con chim tập yêu cái lồng của mình mà không cần
tập hót. Và đến nay, dấu ấn mạnh mẽ anh gieo vào lòng ngời đọc cũng là
những táo bạo của một bản lĩnh dám dấn thân, dám tiên phong. Đó không phải
là những dấu chân in trên trảng cỏ thời gian hiền lành, mà những dấu chân mở
lối giữa chông gai nhiều khi rớm máu. Và những giọt máu rỏ xuống dọc con
đờng tìm kiếm do dẫm vào gai sắc, do bớc qua cả mõm chó vó ngựa, không
phải không kết nên những đoá sáng tạo.
Đã có lúc tôi nghĩ đến cái gen Nghĩa Bình
5
- mảnh đất sinh ra những
tay bút cách tân từng lập nên trờng thơ Loạn nổi đình đám hồi Tiền chiến -
trong tạng thơ Thanh Thảo. Rồi lại thôi. Bởi thế thì chật chội quá. Có lẽ,
Thanh Thảo đã đi trên con đờng mà những Thế Lữ, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử,
Bích Khê, Chế Lan Viên, Đoàn Phú Tứ thời Thơ mới, Trần Mai Ninh,
Nguyễn Đình Thi, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Đặng Đình Hng ngay sau
Thơ mới, Việt Phơng, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Trần Vũ
Mai, Hoàng Hng, Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên v.v
6
trong và
ngay sau thời chống Mỹ ở cả hai miền, những bản lĩnh cách tân thơ Việt hiện
đại đã táo bạo dấn bớc. Cùng với những cây bút nghiêng về truyền thống, họ
đã góp sức đa nền thơ hiện đại mạnh bạo tiến lên. Dấn thân vào thơ đã là một
cuộc chơi mạo hiểm. Có thể cả đời trắng tay. Huống chi là đem quẳng đời
5
Từng là cái tên hồi sát nhập của Bình Định và Quảng Ngãi.
6
Trong số này hẳn còn thiếu nhiều tên tuổi, nhng lần viết này cha phải lúc thống kê hết những tuổi tên, xin
hẹn một lần khác.
9
mình vào cái họng của tam giác bekmud đợc gọi là khát vọng cách tân. Có
thể mất toi một đời nh không. Cao hơn cả chuyện bản lĩnh, tôi nghĩ đến sứ
mạng, đến đam mê đày ải. Hình nh, các tay bút đó bị vị ác thần có tên là Cách
tân mồi chài rồi dùng bùa chú làm cho mê mị. Họ cứ phải cách tân nh phải tìm
sung sớng trong việc đeo tai ách.
Thực ra, nhìn từ những gì thuộc về quan niệm sống và quan niệm thơ, thì
động lực dấn thân của Thanh Thảo có lẽ nghiêm trang hơn. Anh đã bớc vào
cuộc chiến tranh với tâm nguyện đợc trả nghĩa đời mình bằng máu, thì anh
cũng dấn bớc vào sáng tạo để trả nghĩa nghệ thuật bằng cách tân chứ sao.
Cách tân bao giờ cũng là một cuộc dấy nghĩa. Ngòi bút cách tân đâu chỉ cần
tài hoa, mà còn rất cần nghĩa khí. Nghĩa khí của ngời Dù phải húc đầu vào
đá / để mở cửa. Nghĩa khí của ngời sẵn sàng ném thơ mình vào thác xiết
làm một tiếng thét khi đầm lầy ngập cổ / trớc mõm chó vó ngựa / lần đầu
thơ biết đến hiểm nguy(Đêm trên cát). Hẳn Thanh Thảo luôn ý thức đợc hiểm
nguy khi ném câu thơ mình vào cách tân không chút nề hà. Kẻ cách tân nào
cũng sẵn sàng lao vào lửa, dù biết rằng có thể bị lửa thiêu. Nếu không có
những ngời nh thế, nền thơ chúng ta sẽ ra sao ? văn hoá Việt sẽ ra sao ?
*
Một nền thơ khoẻ khoắn bao giờ cũng bớc vững vàng trên đôi chân
truyền thống và hiện đại, bao giờ cũng vừa kế thừa hơng hoả vừa tạo ra những
sản nghiệp mới. Kể từ đầu thế kỉ XX, nhất là khi Thơ mới bùng nổ, thơ Việt đã
thực sự bay vào quỹ đạo hiện đại. Liên tục hiện đại hoá là liên tục cách tân, đó
là yêu cầu sống còn. Hầu nh ai cũng thấy cái xu thế tự nhiên là thơ ca đang
mải miết đi về hiện đại
7
. Nhng hiện đại là thế nào ? Thì hình dung đến là khác
nhau. Câu hỏi ấy, xem ra, không thể chỉ một lời đáp. Nó đã ngốn bao nhiêu
giấy mực, và hẳn sẽ còn tiêu tốn và tiêu phí nhiều nhiều nữa. Song, dù hình
dung có phức tạp và cố chấp đến đâu cũng không thể không thấy rằng hiện đại
hoá thơ là chuyển động tự thân theo những tiếng gọi : thực hơn ! tự nhiên
hơn ! giàu chất nghĩ hơn! Dù nền thơ đang bớc ở chặng nào, tiền chiến, kháng
chiến hay hậu chiến, thì đó vẫn là những tiếng gọi khẩn khoản. Đành rằng nội
dung của mỗi tiếng gọi ấy ở từng đoạn đờng không hoàn toàn giống nhau.
Thực hơn gồm cả hai bình diện : đời thực hơn và tình thực hơn. Sáp vào
hiện thực, thơ dỡ bỏ nhiều biển cấm cảnh báo về những chốn bị coi là tuyệt địa
của thơ. Không có hiện thực nào còn là vùng cấm của thơ kể cả những hiện
thực thơ nhất lẫn hiện thực thô nhất - những miền sống cha thấy dấu in của các
bậc đàn anh. Đồng thời, thơ đào bới ngày càng sâu vào thế giới tâm tình của
chính mình. Những tâm tình ở đằng sau tâm tình
8
. Đó mới là cái tầng đáy
của hiện thực, của đời sống, sự sống. Vì thế, thơ đi vào những miền ẩn khuất
của tinh thần, vào cả những vùng mờ của ý thức, những vùng cha từng có ngời
7
Chữ "hiện đại" dùng ở đây theo nghĩa rộng, không theo nghĩa đối lập với "hậu hiện đại".
8
Lời thơ Nguyễn Duy.
10
bay. Hệ quả là : thơ vừa mở lòng hớng ngoại, ghi chép hiện thực đời sống(thơ
muốn hoá kí, và đã bị kí hoá một cách hồn nhiên), vừa hớng nội dò tìm vào
trong bản thể mình (thơ muốn thành bản tốc kí tâm hồn, thành lời nguyện
chốn tâm linh).
Tự nhiên hơn cũng gồm hai bình diện. Về lời, thơ gần với lời nói thờng
hơn, khẩu ngữ hoá nhiều hơn. Sáp vô lời nói thờng còn đầy bụi bặm của dòng
đời sống xô bồ, lời thơ không chỉ là điệu nói mà có khi còn là nói chơi
chơi. Về liên kết, thơ tiến gần hơn với dòng chảy có thực của mạch tâm t cá
thể. Đó là dòng sống thực của tinh thần con ngời từ khoảnh khắc sang khoảnh
khắc với tất cả những bất định của nó. Điều này đem lại cho câu thơ diện mạo
có phần phi trật tự. Các dạng liên tởng càng ngày càng bất chợt, bất ngờ hơn.
Khớc từ cái trật tự đợc sắp đặt bởi lí tính truyền thống thờng liên kết theo
mạch ý, mạch tứ, mạch cốt, mạch tình , nó có cơ xáo trộn tất cả những cái đó
thành một dòng chảy càng lúc càng bất định
9
.
Còn giàu chất nghĩ hơn chính là việc cái tôi nghiêng về nội cảm hồi Thơ
mới chuyển hoá sang cái tôi nghiêng về t duy. Thơ đào sâu vào những miền t
tởng, mở ra mọi nẻo t duy, gõ mọi cánh cửa tâm thức. Thơ ráo riết kiếm tìm
những chân lí nhân sinh, những lẽ đời thiết cốt từ việc đúc kết ngay mọi trải
nghiệm của chính mỗi cá nhân. Thơ muốn có hàm lợng t tởng giàu hơn, duy lí
hơn. Do tất cả những lẽ đó, thơ hiện đại tạo cái cảm giác thơ mà không thơ,
không thơ mà thơ, cũng tạo cơ hội cho bản sắc cá thể đợc tung hoành nhiều
hơn.
Thanh Thảo cũng không đi chệch quỹ đạo đó.
*
Đầu thời chống Mĩ, thơ mạnh về thứ tâm tình ở bên trên. Thứ nội tâm
giản đơn đợc chuyển động bởi một chủ nghĩa lạc quan ít nhiều dễ dãi, dập
khuôn, nhiều giáo điều, hô hào, ca tụng. Nghĩa là một thứ nội tâm chân thành
đấy, nhng vẫn kha khá là vô tâm. Vào chiến trờng khi cuộc chiến bớc tới hồi
khốc liệt, cùng nhiều cây bút khắt khe khác, Thanh Thảo đem đến một tiếng
thơ đầy những bận tâm, toàn những day dứt nhân bản sâu kín về chuyện đợc -
mất, sống chết, vinh - nhục, hoạ - phúc, chung - riêng, cá nhân cộng
đồng, gia đình - tổ quốc, toàn những trải nghiệm sinh tử, rớm máu mà vẫn
kiên tâm. Nhờ đó, ấn tợng đầu tiên thơ anh tạo đợc là : giàu đời sống thực
nặng tâm tình thực. Thơ anh luôn thiết tha với cái thực ấy. Nhìn kĩ, thời kì đầu
anh nghiêng về đời sống thực hớng ngoại nhiều hơn có thể gọi đó là thời
kì sáng, càng về sau anh càng hớng nội vào tâm tình thực, càng đào sâu vào
những vùng âm u trong bản thể có thể coi đó là thời kì tối chăng ? Hành
trình từ sáng đến tối nh thế hình nh cũng là hành trình khá phổ biến của
các nghệ sĩ ! Tuy nhiên, hớng cách tân đó cha phải là kỉ lục đáng nói của anh.
9
Các nhà siêu thực là một trong những kẻ đầu têu của hình thức liên kết này.
11
Thanh Thảo đợc xem là tay cách tân chủ yếu ở chuyện khác : chuyện hình
thức.
Hình thức thơ cũng có nhiều chuyện, từ thi liệu đến thể loại, từ ngôn từ
đến âm điệu, từ câu cú đến vần luật , cái gì cũng có thể là điểm cách tân. Nh-
ng, nếu thơ bao giờ cũng là một kiến trúc ngôn từ tinh vi và sống động, thì
chẳng phải cấu trúc mới là khâu quyết định nhất hay sao ? Cấu trúc có mặt
trong mọi thành tố của thơ. Mà xét đến cùng, cấu trúc là gì nếu không phải là
tổ chức bên trong, là các dạng liên kết, các kiểu kết hợp. Có lẽ ý thức đợc sâu
sắc điều này, Thanh Thảo đã tập trung nỗ lực cách tân của mình đột phá vào
cấu trúc thơ, tìm kiếm các mối kết hợp, các dạng liên kết cho thơ mình.
Thật lạ lùng là sự sáng tạo ! Thần sáng tạo có lẽ là một gã thất thờng,
thích rong chơi, những chớp sáng chỉ loé lên vào cái phút cao hứng vẩn vơ nào
đó. Có kẻ cần cù vùi đầu trong phòng thí nghiệm, trong th viện cả đời cha chắc
đã đợc ban cho một tia chớp nào. Trái lại, có kẻ tài tử, hứng thì ngâm cứu oải
thì ngâm nga, thế mà thần lại ban cho những ánh chớp qúi giá. Ngay với cả
những bác học, những nhà phát minh, thần sáng tạo vẫn giữ cái thói đỏng đảnh
đó của mình. Những khoảnh khắc chớp loé thì đến là kì cục. Arsimet khoả
thân tắm trong bồn, Newton ngồi nhìn táo rơi, Jem Wach trông nồi cháo,
Einstein ngó quả trứng, Jorn Utzon liếc những lát cam xếp chồng vào nhau
Thế mà bồn tắm đã hiến định luật về lực nớc, táo cung tiến định luật vạn vật
hấp dẫn, nồi cháo tặng máy hơi nớc, trứng dâng thuyết tơng đối, mấy lát cam
biếu cả một nhà hát ôpêra Sidney ấy là nói cho vui thế, chứ không có những
bộ óc biết phát kiến đơng vắt óc tìm tòi, thì làm sao loé sáng mà đón nhận đợc
quà tặng vô giá kia của thần sáng tạo vào đúng cái khoảnh khắc ấy! Chẳng
biết tôi có quyền liên tởng to tát thế không nhỉ, khi nói về cái khối vuông
rubich đối với Thanh Thảo ? Tôi cha hỏi Thanh Thảo xem cái ý rubich đến
với anh trong tình huống nào. Rubich thuần là một trò chơi, thơ là một chuyện
nghiêm túc ; rubich là của vật lí, cơ học, còn thơ là của tâm thức, tâm hồn.
Làm sao lại có mối liên hệ giữa chúng ? Không sợ cọc cạch, gò gẫm sao ? Nh-
ng tôi hoàn toàn hình dung đợc cái khoảnh khắc sững ngời của anh, khi bất
chợt thấy ra sự kì diệu của khối rubich mình đang cầm trên tay. Những ô màu
hỗn loạn lại châu tuần rất trật tự xung quanh cái trục bí mật của rubích. Cái
trục lạ lùng kia cho phép các ô màu mặc sức tán loạn. Bởi một khi nó đã là các
phần tử của rubich thì tất sẽ châu tuần về tâm và chịu sự chi phối của một
trung tâm duy nhất. Lỏng đấy mà chặt đấy, hỗn loạn tán lạc vô chừng mà cũng
trật tự nhất quán vô song. Đó là cấu trúc của rubich. Mà không chỉ thế ! Vẫn
còn gì đó kì diệu hơn nữa ! Có phải có một gặp gỡ ngẫu nhiên giữa rubich -
một sản phẩm phơng Tây với Kinh dịch - một sản phẩm phơng Đông chăng ?
có phải rubích - một đồ chơi con trẻ kia, lại chính là mô hình cơ học của đồ
hình bát quát - một thâu tóm tinh vi về cấu trúc và vận động của vũ trụ và sự
sống này chăng ? Dù bề mặt các ô màu có hỗn loạn nhng tất cả vẫn phải tuân
12
theo quy luật về vận hành của nó ! Đó là trật tự của vũ trụ, trật tự của sự sống.
Thế là chớp loé. Anh đã kêu lên : Rubich - đó là cấu trúc của thơ ! Phải, thì
cấu trúc của thơ cũng là thế chứ sao ? Thế là rubich đã dâng cho anh không
chỉ một thi phẩm, mà hiến cho anh báu vật lớn hơn nhiều : ý tởng về cấu trúc
thơ. Có phải từ sau khoảnh khắc ấy, Thanh Thảo đã thành thi sĩ say mê tìm
kiếm cái trật tự trong cái hỗn loạn ?
Anh đã đột phá vào khâu cấu trúc thơ bằng lợi khí gì ? Bằng gia tăng
chất nghĩ. Khi Thanh Thảo phát huy lợi khí này, trong thơ đã có không ít cây
bút thành công với chất nghĩ. Nguyễn Đình Thi suy t trong cảm xúc, Chế Lan
Viên t biện bằng hình ảnh - khái niệm, Việt Phơng lập tứ bằng lập lí, Nguyễn
Khoa Điềm triết luận bằng tri thức trờng ốc trộn lẫn trờng đời Đậm nhạt có
khác nhau, nhng lôgic suy lí vẫn là mạch liên kết chủ đạo trong các thi phẩm
của họ. Chất nghĩ ở Thanh Thảo có vẻ đợc buông thả hoàn toàn cho lôgic liên
tởng. Mà lôgic của liên tởng là tự do. Liên tởng tự do là mạch liên kết của
dòng sống thực diễn ra trong tinh thần của cá thể. Nó có vẻ hỗn loạn. Nhng
cần vẻ hỗn loạn kia để làm nên tính tự nhiên cho mạch liên kết. Nếu thuần hỗn
loạn, thơ chỉ là những thi ảnh tán lạc, một thể lỏng bất định vô nghĩa. Cần phải
lập cho nó một trật tự thì mới thực nên thơ. Thanh Thảo đã cài đặt con chip
t tởng vào mạch liên tởng, để nó kín đáo lập trình cho liên tởng. Mĩ cảm dẫn
dắt liên tởng, liên tởng ém nhẹm t tởng trong lòng mà tung tẩy phóng túng. Vì
thế mà thiết lập đợc trật tự cho sự hỗn loạn. Đó là diện mạo căn bản của chất
nghĩ ở thơ Thanh Thảo. Và đó cũng chính là tinh thần của nguyên lí rubich.
Trong bài thơ có tên là Chuỗi cờm, anh tâm sự về thi pháp đó của
mình : tôi hay nghĩ điều cha thành / những màu sắc lạ thoáng nhanh qua
đầu / tôi hay xâu chuỗi vào nhau / những chữ rời rạc nh xâu hạt cờm / có khi
dùng sợi chỉ thờng / có khi là một chuỗi cờm không dây. Sợi chỉ thờng là
mạch nổi , còn không dây là chỉ việc đặt cạnh nhau có vẻ ngẫu nhiên theo
qui luật bất định của liên tởng, để các hạt - cờm - thơ nh những ô màu hỗn
loạn châu tuần quanh một trục bí mật, một mạch ngầm. Sáng tạo nh thế chính
Thanh Thảo đã gọi là hành vi mà sự cố ý ẩn sâu trong tiềm thức, đẩy những
màu sắc ngẫu nhiên nổi lên nh rubich xoay quanh cái trục bí mật của chính
nó. Gọi chuỗi cờm kia là một trật tự của cái hỗn loạn hay là một dạng làm
mất trật tự một cách cố ý cũng đợc. Tôi nhớ hình nh W.Goethe có nói ở đâu đó
rằng : Đôi khi sự mất trật tự một cách cố ý lại chính là nghệ thuật. Hỗn
loạn ở bề mặt, nhất quán ở bề sâu là một dạng đó vậy. Các bài thơ Thanh
Thảo, do liên kết theo kiểu cấu trúc nh thế, thờng có vẻ lỏng hơn, cảm xúc thơ,
chất thơ (theo quan niệm truyền thống) nh mờ hơn, chìm hơn, lạnh hơn. Nhng
thực ra đó là thứ thơ nhiều tiết chế về cảm xúc. Thứ thơ không bỏ cảm xúc
thay bằng cảm giác, mà dùng chất nghĩ tạo một kiểu cảm xúc gói kín trong
cảm giác. Hệ quả là : nó gợi cảm (gián tiếp) chứ không theo lối truyền cảm
13
(trực tiếp). Ví nh Trang sức : Anh sẽ đeo vào tay em gié lúa / vòng ngọc xanh
tiếng dế kêu lá cỏ / ngọn lửa của da thịt / chìm trong núm vú hồng hồng //
anh sẽ đeo vào cổ em / sợi dây chuyền bí ẩn của bóng đêm / những chiếc
chuông mùa thu trong trẻo / rung lên khi thành phố bay về trời // anh sẽ đeo
vào ngực em / cơn bão. Hay ở quê nhà : Những cây cau trổ hoa / yêu thơng
xa lạ / nơi không khí biến ta thành lặng lẽ / dẫu muốn ồn ào biết ồn ào với
ai / gần nh một bức tờng vô hình dựng lên / bao bọc quê nhà mấy mơi năm
xa cách / thỉnh thoảng ta về nhìn ngắm lại / phần đời đầu tiên con đờng
loang những vết bùn // nơi mùi hoa cau thơm đậm hơn / lúa xanh hơn dòng
sông hiền hơn tất cả / hoàng hôn đến nh một ngời gánh rạ / gánh sắc vàng
đang sẫm dần.
*
Từ bàn đạp ấy về cấu trúc, Thanh Thảo đã lao vào trờng ca.
Trong các nhà thơ chống Mỹ, Thu Bồn là ngời hùng về trờng ca với số l-
ợng lớn và sức vạm vỡ của nó. Nhng Thanh Thảo mới thực là ông vua trờng
ca. Anh viết dễ có đến cả chục bản trờng ca chứ chả chơi. Những ngời đi tới
biển(1977), Trẻ con ở Sơn Mỹ (1978), Những nghĩa sĩ Cần Giuộc (1980),
Bùng nổ của mùa xuân (1982), Đêm trên cát (1983), Khối vuông rubich
(1985), Một trăm mảnh gỗ vuông (1988), Trò chuyện với nhân vật của
mình(2002), Cỏ vẫn mọc (2002) v.v Không chỉ nhiều, mà còn lạ. Hầu hết tr-
ờng ca khác, kể cả trờng ca Thu Bồn, đều có dạng hoặc phỏng theo lối kể
khan Tây Nguyên để tạo ra những khan đời mới, hoặc tựa vào cốt truyện
để có dáng dấp một truyện thơ, hoặc phân cảnh theo lối sân khấu để tựa nh
những hoạt cảnh thơ, hoặc tựa vào luận lí để trở thành những trờng ca chính
luận, hoặc đơn giản chỉ là kéo dài thơ ngắn mà thành trờng ca v.v Từ chối
những dạng quen thuộc ấy, trờng ca Thanh Thảo khác. Nói chung, ngoài Cỏ
vẫn mọc viết theo lối kịch bản phim tài liệu nghệ thuật, thì các bản trờng ca
của anh thuộc về hai dạng : hoặc là những giao - hởng - thơ, hoặc là những
rubich- thơ.
Nghe quả lạ tai. Nhng là sự thật.
Khối vuông rubich
10
hẳn nhiên là rubich - thơ rồi. Nhng Một trăm mảnh
gỗ vuông và gần đây là Trò chuyện với nhân vật của mình, nhìn từ cấu trúc,
cũng là những rubich - thơ. Trò chuyện có cấu trúc nh sau : về hình tợng,
nhân vật nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu ngồi chính giữa, là cái trục rubich, còn
các nhân vật của ông nh Vân Tiên, Nguyệt Nga, Hớn Minh, Tử Trực, Ông
Quán, Tiểu Đồng, châu tuần xung quanh, tựa những ô màu rubich ; về ý t-
ởng, với mỗi nhân vật là một vài mẩu đối thoại, có vẻ tản mạn, tán lạc, nhng
tất cả vẫn xoay quanh một trục là luận về đức hạnh và nghệ thuật, mà tâm
10
Thực ra, "Rubich" không chỉ có khối vuông, mà còn cả khối tam giác.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét