Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2014
HOÀNG THÀNH THĂNG LONG GIÁ TRỊ LỊCH sử văn HOÁ VIỆT
I. CỘI NGUỒN LỊCH SỬ
1. Vài nét về lịch sử định đô và kiến tạo Hoàng Thành Thăng Long
Bản đồ Thăng Long thời Hồng Đức (1490)
Lý Công Uẩn lên ngôi vua, sáng lập vương triều Lý (1009 - 1225) tại kinh
đô Hoa Lư (Ninh Bình) ngày 2-11 Kỷ Dậu (21 – 11 - 1009). Tháng 7 mùa
thu năm 1010, nhà vua dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La và đổi tên là
Thăng Long. Ngay trong mùa thu năm đó, nhà Lý đã khẩn trương xây dựng
một số cung điện làm nơi ở và làm việc của vua, triều đình và hoàng gia.
Trung tâm là điện Càn Nguyên, nơi thiết triều của nhà vua, hai bên có điện
Tập Hiền và Giảng Võ, phía sau là điện Long An, Long Thụy làm nơi vua
nghỉ. Đến cuối năm 1010, 8 điện 3 cung đã hoàn thành. Những năm sau,
một số cung điện và chùa tháp được xây dựng thêm. Một vòng thành bao
quanh các cung điện cũng được xây đắp trong năm đầu, gọi là Long Thành
hay Phượng Thành. Đó chính là Hoàng Thành theo cách gọi phổ biến về sau
này. Thành đắp bằng đất, phía ngoài có hào, mở 4 cửa: Tường Phù ở phía
đông, Quảng Phúc ở phía tây, Đại Hưng ở phía nam, Diệu Đức ở phía bắc.
Tuy còn những ý kiến khác nhau, nhưng căn cứ vào sử liệu và di tích còn
lại, có thể xác định cửa Tường Phù mở ra phía Chợ Đông và khu phố buôn
bán tấp nập của phường Giang Khẩu và đền Bạch Mã. Cửa Quảng Phúc mở
ra phía chùa Diên Hựu (chùa Một Cột) và chợ Tây Nhai (chợ Ngọc Hà).
Cửa Đại Hưng ở khoảng gần Cửa Nam hiện nay. Cửa Diệu Đức nhìn ra
trước sông Tô Lịch, khoảng đường Phan Đình Phùng hiện nay. Trong Long
Thành có một khu vực được đặc biệt bảo vệ gọi là Cấm Thành là nơi ở và
nghỉ ngơi của vua và hoàng gia. Trong đời Lý, các kiến trúc trong Hoàng
Thành còn qua nhiều lần tu sửa và xây dựng thêm.
Long Thành và Cấm Thành là trung tâm chính trị của Kinh Thành. Phía
ngoài, cùng với một số cung điện và chùa tháp là khu vực cư trú, buôn bán,
làm ăn của dân chúng gồm các bến chợ, phố phường và thôn trại nông
nghiệp. Một vòng thành bao bọc toàn bộ khu vực này bắt đầu được xây đắp
từ năm 1014, gọi là thành Đại La hay La Thành.
Vòng thành này vừa làm chức năng thành luỹ bảo vệ, vừa là đê ngăn
lũ lụt. Thành được đắp mới và có tận dụng, tu bổ một phần thành Đại La cũ
đời Đường. Thành Đại La phía đông chạy dọc theo hữu ngạn sông Nhị như
một đoạn đê của sông này từ Bến Nứa đến Ô Đống Mác, phía bắc dựa theo
hữu ngạn sông Tô Lịch phía nam Hồ Tây từ Bưởi đến Hàng Buồm ngày
nay, phía tây theo tả ngạn sông Tô Lịch từ Bưởi đến Ô Cầu Giấy, phía nam
theo sông Kim Ngưu qua Giảng Võ, Ô Chợ Dừa, Ô Cầu Dền, đến Ô Đống
Mác. Thành Đại La đời Lý mở các cửa: Triều Đông (dốc Hòe Nhai), Tây
Dương (Cầu Giấy), Trường Quảng (Ô Chợ Dừa), Cửa Nam (Ô Cầu Dền),
Vạn Xuân (Ô Đống Mác). Thành Đại La được bao bọc mặt ngoài bởi ba con
sông: sông Nhị, sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu và được tận dụng như những
con hào tự nhiên. Một đặc điểm nổi bật của cảnh quan thiên nhiên của thành
Thăng Long là nhiều sông hồ. Có thể nói Thăng Long - Hà Nội là một thành
phố sông-hồ và ngay từ khi kiến lập, nhà Lý đã biết tận dụng địa thế tự
nhiên này trong qui hoạch xây dựng nhằm biến những sông, hồ đó thành
những con hào tự nhiên, những giao thông đường thuỷ tiện lợi và một hệ
thống thoát nước, điều tiết môi trường, bảo vệ sinh thái. Vì vậy mặt bằng
các vòng thành Thăng Long không coi trọng tính kỷ hà, đối xứng, vuông
vắn mà uốn mình theo địa hình, thích nghi và tận dụng điều kiện thiên
nhiên.
Hình vuông trên bản đồ là Hoàng thành Hà nội trong bản đồ Hà Nội
năm 1885
Trong những biến loạn cuối đời Lý, Hoàng Thành bị tàn phá nặng nề. Sau
khi thành lập, nhà Trần phải đắp lại thành, xây lại các cung điện, nhưng vị
trí, qui mô của Hoàng Thành, thường gọi là Long Phượng Thành, không
thay đổi.
Thời Lê sơ, Hoàng Thành nhiều lần được tu bổ và mở rộng thêm mà trung
tâm điểm là điện Kính Thiên dựng năm 1428, xây lại năm 1465 với lan can
bằng đá chạm rồng năm 1467 nay vẫn còn trong thành Hà Nội. Năm Hồng
Đức thứ 21 (1490), vua Lê Thánh Tông định bản đồ cả nước gồm 13 thừa
tuyên và phủ Trung Đô tức thành Đông Kinh thời Lê sơ. Tập Bản đồ Hồng
Đức còn lại đến nay đã qua nhiều lần sao chép lại về sau, nhưng vẫn là tập
bản đồ xưa nhất của nước Đại Việt, trong đó có bản đồ thành Đông Kinh.
Qua bản đồ này, có thể hình dung được qui mô và cấu trúc của Hoàng
Thành và Cấm Thành của thành Thăng Long thế kỷ XV cùng một số cung
điện đương thời
Sang thời Nguyễn, thành Hà Nội do vua Gia Long xây năm 1805 theo kiểu
Vauban không những hạ thấp độ cao mà còn thu nhỏ về qui mô so với
Hoàng Thành của Thăng Long xưa. Tuy nhiên trục trung tâm Đoan Môn
Kính Thiên của Hoàng Thành Thăng Long thời Lê vẫn không thay đổi và
trên trục này thêm Cột Cờ, Cửa Bắc thời Nguyễn.
2. Phát lộ di tích Hoàng thành Thăng Long
Theo Luật di sản văn hoá, trước khi thực hiện dự án xây dựng Nhà Quốc hội
và Hội trường Ba Đình, trên khu vực nằm giữa các đường phố Hoàng Diệu,
Hoàng Văn Thụ, Độc Lập, Bắc Sơn, Chính phủ cho phép Viện Khảo cổ học
tiến hành khai quật trên diện rộng. Từ tháng 12/2002 đến nay, đã khai quật
trên diện tích hơn 19.000 m
2
. Đây là quy mô khai quật khảo cổ học lớn nhất
ở Việt Nam và cũng vào loại lớn nhất ở Đông Nam Á. Từ đó đã phát lộ một
phức hệ di tích – di vật rất phong phú, đa dạng từ thành Đại La (thế kỷ VII -
IX) đến thành Thăng Long (thế kỷ Xl -XVIII) và thành Hà Nội (thế kỷ
XIX).
Trên cơ sở phát hiện khảo cổ học này, các nhà khảo cổ học còn phải dành
nhiều thời gian để chỉnh lý hiện vật và hoàn chỉnh hồ sơ khoa học về các di
tích, di vật. Về phương diện khoa học, các nhà khoa học thuộc nhiều chuyên
ngành liên quan như khảo cổ học, sử học, kiến trúc, văn hoá, địa lý, địa
chất, môi trường,,, cũng cần có nhiều thời gian để nghiên cứu, thảo luận
hàng loạt vấn đề như cảnh quan tự nhiên, cấu tạo của các sông, hồ, quan hệ
giữa các lớp đất; tên gọi, chức năng, niên đại của các di tích kiến trúc; cấu
trúc của khu di tích và sự biến đổi qua các thời kỳ lịch sử; phân loại và xác
định nguồn gốc, niên đại các di vật. Vì vậy không có gì ngạc nhiên, trong
một vài hội thảo khoa học hay trên báo chí, xuất hiện một số ý kiến khác
nhau về những vấn đề khoa học cụ thể này. Tuy nhiên, trên tổng thể đã có
đủ cơ sở khoa học để đưa ra những đánh giá khái quát về giá trị lịch sử văn
hoá của khu di tích đã phát hiện.
Dấu tích kiến trúc thời Lý - Trần ở hố D4 - D6 (khu
D)
Dấu vết nền cung điện thời Lý ở Hố A20
Chụp lại từ cuốn Hoàng Thành Thăng Long, quà
tặng cho các đại biểu quốc tế tham dự Hội nghị
APEC 2006.
Khu vực khai quật hiện nay nằm về phía tây của điện Kính Thiên trong
Hoàng Thành thời Lê sơ. Rõ ràng đây là di tích của một phần phía tây
Hoàng Thành Thăng Long thời Lý, Trần, Lê sơ, Mạc, Lê Trung Hưng thế
kỷ XI - XVIII, ngược lên thành Đại La thế kỷ VII - IX và kéo dài đến hành
Hà Nội thế kỷ XIX. Khu di tích bộc lộ một bề dày lịch sử từ thế kỷ VII đến
thế kỷ XIX gồm thời tiền Thăng Long, thời Thăng Long và Hà Nội. Các di
tích và tầng văn hóa chồng xếp lên nhau qua nhiều thời kỳ lịch sử một cách
khá liên tục. Thật hiếm có một khu di tích lịch sử-văn hoá trải dài qua nhiều
thời kỳ lịch sử như vậy giữa vùng đất trung tâm của thủ đô và cũng thật
hiếm có thủ đô một nước có lịch sử lâu đời lại phát hiện một quần thể di tích
chảy dài suốt bề dày lịch sử như vậy.
Các di tích kiến trúc và một khối lượng rất lớn di vật cho thấy một phần qui
mô và diện mạo của Hoàng Thành cùng đời sống cung đình của vua quan,
quý tộc qua các thời kỳ lịch sử. Tầng tầng lớp lớp di tích - di vật hiện lên
như một bộ sử nghìn năm văn hiến của Thăng Long – Hà Nội phản chiếu
trình độ và bản sắc dân tộc của một trung tâm văn hóa lớn nhất và lâu đời
nhất của đất nước.
Về phương diện lịch sử, phát hiện khảo cổ học này cung cấp nhiều cứ liệu
khoa học để xác định vị trí trung tâm của thành Thăng Long - Đông Đô -
Đông Kinh, để hiểu thêm mối quan hệ giữa thành Đại La với thành Thăng
Long thời Lý, Trần, Lê và thành Hà Nội thời Nguyễn. Thành Đại La qua
nhiều lần xây dựng, từ Tử Thành do Khâu Hoà xây năm 618 chỉ 900 bộ
(khoảng 1,65 km), La Thành do Trương Bá Nghi xây năm 767 rồi Triệu
Xương đắp thêm năm 791, thành Đại La do Trương Chu xây năm 808 mà
La Thành bên ngoài dài 2000 bộ (khoảng 3,70 km) rồi Lý Nguyên Gia dời
thành và Cao Biền mở rộng thêm thành 1982 trượng (khoảng 6,5 km), ngoài
có đê dài 2125 trượng (khoảng 7 km). Đó là toà thành có qui mô lớn nhất
trong thời Bắc thuộc. Tại khu vực khai quật, đã tìm thấy dấu tích thành Đại
La trên cả bốn khu A, B, C, D, chứng tỏ vùng này nằm trong thành Đại La.
Bên trên dấu tích Đại La là di tích kiến trúc và các di vật thời Lý. Điều đó
chứng tỏ vua Lý Thái Tổ đã dời đô từ Hoa Lư về đô cũ của Cao Vương ở
thành Đại La đúng như Chiếu dời đô, đổi tên là thành Thăng Long và buổi
đầu đã sử dụng toà thành này cùng một số kiến trúc có sẵn rồi sửa sang, xây
dựng thêm những cung điện mới. Phạm vi của Hoàng Thành từ thời Lý,
Trần sang Lê sơ thay đổi như thế nào còn phải nghiên cứu thêm, nhưng qua
phát hiện khảo cổ học ở Ba Đình thì rõ ràng khu vực này là một bộ phận
phía tây của Hoàng Thành xưa và không thay đổi. Hơn nữa, theo bản đồ
thành Đông Kinh thời Hồng Đức thì khu vực khai quật này nằm trong phạm
vi cấm thành của Hoàng Thành. Kết quả khai quật khảo cổ học kết hợp với
tư liệu thư tịch và bản đồ cổ cho phép hình dung khu trung tâm của Hoàng
Thành rõ nét hơn.
Phát hiện này còn cung cấp thông tin cho biết trong lòng đất Hoàng thành
Thăng Long xưa còn bảo tồn nhiều di tích di vật quý. Từ đây có thể đưa ra
khả năng mở rộng diện điều tra và khai quật, xây dựng quy hoạch bảo tồn
một khu vực di tích lịch sử văn hoá của kinh thành Thăng Long, thành Hà
Nội cổ và mở rộng đến các di tích cách mạng và kháng chiến thời đại Hồ
Chí Minh như Hội trường Ba Đình, Lăng và Nhà sàn Bác Hồ, Tổng hành
dinh Quân đội nhân dân Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ, Hội trường
Ba Đình, kéo dài từ thế kỷ thứ VII (hi vọng có thể phát hiện những di tích,
di vật sớm hơn) đến thế kỷ XX. Đây là một di sản văn hóa vô giá của dân
tộc nằm giữa thủ đô Hà Nội và nếu nghiên cứu, bảo tồn tốt, có thể được
UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới. Một di sản văn hoá như
vậy sẽ tăng thêm vị thế của thủ đô Hà Nội, phát huy tác dụng sâu sắc trong
giáo dục truyền thống dân tộc cũng như trong các hoạt động giao lưu văn
hoá và du lịch. Chỉ một bộ phận di sản đã được phát hiện ở Ba Đình hiện
nay đã làm xúc động biết bao những người có dịp đến tham quan, chiêm
ngưỡng và cả những người chỉ mới được nghe tin và xem ảnh qua các
phương tiện thông tin đại chúng.
3. Sự thăng trầm của Hoàng thành
Tô Lịch - Nùng Sơn theo phong thủy xưa là hai biểu tượng của nước non
Thăng Long - Hà Nội. Nói theo sinh thái học nhân văn thì Thăng Long - Hà
Nội là một đô thị sông - hồ được bao bọc bởi một “tứ giác nước” 30 km
“đường đê La Thành”:
Nhị Hà quanh bắc sang đông
Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này.
Tô Lịch tách ra khỏi Nhị Hà ở khoảng chợ Gạo, chảy qua giữa Ngõ Gạch -
Hàng Buồm, luồn qua Cầu Đông - Hàng Đường - Hàng Cá - Cống Chéo
Hàng Lược, ngoằn ngoèo theo đường Quán Thánh rồi chảy xuống Thụy
Khuê - Hồ Khẩu
Kim Ngưu mở cửa vào Hồ Tây (cũng có tên khác là hồ Kim Ngưu), chảy
theo chiều bắc – nam thành Ngọc Hà, dọc dài đường Ông Ích Khiêm - Lê
Trực (nay là cống ngầm) luồn qua đường Cát Linh mà chảy xuống Hào
Nam
Cửa Bắc của thành Hà Nội thời Nguyễn (xây trên nền Cửa Bắc thời Lê)
Thích nghi tối ưu - tối đa với môi trường tự nhiên sông nước trên đại thể
được vạch ra tóm gọn như trên, ta dễ dàng hiểu nhà phong thủy Cao Biền
(thế kỷ IX) và các nhà quy hoạch La Thành - Đại La Thành - Long Phượng
Thành sẽ lấy núi Nùng làm trung điểm và các đường - vệt nước sông hồ Tô
Lịch - Kim Ngưu (Ngọc Hà) làm “hào” mà đắp xây các lũy thành. Các tấm
bản đồ Thăng Long thành đời Lê, tuy không vẽ theo họa pháp địa lý học tân
thời, về cơ bản cũng cho ta hình dung được điều đó (trong bài này tôi xin
phép được sử dụng bản đồ do PGS.TS Ngô Đức Thọ vừa sưu tầm được
trong cuốn Thiên tải nhàn đàm của Đàm Nghĩa Am viết và vẽ lại năm Gia
Long thứ 9 - 1810).
Theo “thủ chiếu” của Lý Thái Tổ thì ngài muốn dời đô từ Hoa Lư ra “thành
Đại La cố đô của Cao Vương”. Cố nhiên Ngài và các vua kế vị về sau cũng
xây dựng thêm nhiều cung điện,cầu cống
Nhà Trần thay ngôi nhà Lý một cách hòa bình cũng sử dụng lại
Hoàng thành Thăng Long và có xây dựng, sửa chữa thêm, nhất là sau những
cơn binh hỏa chống Mông - Nguyên. Nhà Hồ dựng Tây Đô ở xứ Thanh, đổi
tên Thăng Long thành Đông Đô và có dỡ một vài cung điện ở Thăng Long
đưa vào Tây Đô. Sau 20 năm Minh thuộc và chống Minh, tháng 4/1428, Lê
Lợi, người sáng nghiệp triều Lê vào yên vị ở Đông Đô (1430 đổi là Đông
Kinh, nhưng cái tên tuyệt đẹp Thăng Long vẫn tồn tại dài dài). Nhà Mạc
xây Dương Kinh ở quê nhà gần biển, ít xây dựng ở Đông Kinh ngoài việc
đắp thêm nhiều lũy thành ở phía nam kinh thành để chống Trịnh. Thời Lê
Trung Hưng, chúa Trịnh xây Vương phủ riêng bên bờ tả - hữu Vọng Hồ
(Hồ Hoàn Kiếm). Vua Lê vẫn ngồi trên ngôi hư vị ở hoàng thành cũ, có đổ
nát đi hơn là xây dựng thêm.
Rồi Gia Long và Minh Mạng phá Hoàng Thành cũ, xây Bắc Thành, tỉnh
thành Hà Nội mới theo kiểu Vauban. Thi hào Nguyễn Du than thở:
Thiên niên cự thất thành quan đạo
Nhất phiến tân thành một cố cung.
Tạm dịch:
Cung điện ngàn năm thành đường cái
Một tòa thành mới mất cung xưa.
Bà Huyện Thanh Quan hoài cổ Thăng Long Thành:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Nửa cuối thế kỷ XIX, Việt Nam - Hà Nội rơi vào tay thực dân Pháp. Pháp
phá thành Hà Nội để xây “khu phố Tây”, khu nhà binh Pháp, sân vận động
Mangin (nay là Trung tâm Thể dục thể thao quân đội) Cái thiêng “Nùng
Sơn chính khí” với tòa điện Kính Thiên xây bên trên đã bị giải thiêng.
Kính Thiên ngai ngự thếp vàng
Tây ngồi đánh chén cùng đoàn thanh lâu.
Điện Kính Thiên còn 4 bệ 9 bậc (cửu trùng) Rồng đá thời đầu Lê. “Cô Tư
Hồng” đấu thầu phá thành, chỉ dùng gạch của thành cũ đã xây được vài khu
phố mới ở đường Nguyễn Biểu - Đặng Dung nay, sau khi dùng phế tích lấp
hồ Cổ Ngựa - cái hồ kéo dài Hồ Tây - hồ Trúc Bạch với hồ Hàng Đậu - hồ
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét