Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2014

CH__NG 2 NHAN CACH NPT

CHƯƠNG 2.
NHÂN CÁCH NGƯỜI PHẠM TỘI
1. Khái niệm nhân cách người phạm tội
Các nhà khoa học thường nói nhân cách là một cấu tạo tâm lí. Việc
xác định đúng và đầy đủ các thành phần cấu trúc của nó là một yêu cầu về lí
luận và phương pháp. Có nhiều quan điểm khác nhau của các tác giả trong
và ngoài nước về khái niệm, cấu trúc nhân cách. Tuy nhiên, đến nay vẫn
chưa có ý kiến thống nhất ngay cả trong cùng một trường phái tâm lý học.
Dù xem xét ở góc độ nào, chúng ta cũng phải dựa vào quan điểm mác xít về
bản chất xã hội của nhân cách. Nhân cách là thước đo mặt xã hội trong sự
phát triển cá thể của con người. Nó biểu hiện cụ thể thông qua mức độ tham
gia của con người vào nền văn hóa xã hội.
Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của một con người biểu
hiện ở bản sắc và giá trị xã hội của người đó. Khi xem xét nhân cách có thể
xem xét trong các quan hệ xã hội lịch sử cụ thể, vị trí của cá nhân trong hệ
thống các mối quan hệ xã hội, địa vị của họ trong cơ cấu xã hội. Từ đó, có
thể chia nhân cách làm 2 loại:
- Nhân cách hợp chuẩn: Nhân cách đáp ứng được các chuẩn mực xã
hội. Đây là những nhân cách có các thuộc tính, phẩm chất đáp ứng được các
yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, thích ứng với các chuẩn mực đạo đức, pháp luật,
phù hợp với quá trình phát triển xã hội. Đó là những con người, những công
dân bình thường hiểu được trách nhiệm và nghĩa vụ công dân, hành động
đúng pháp luật.
- Nhân cách không hợp chuẩn là những nhân cách có các đặc điểm,
thuộc tính không phù hợp với các chuẩn mực đạo đức, các quy phạm pháp
luật không đáp ứng đòi hỏi của xã hội, những nhân cách này dễ bị xã hội đào
thải.
Vậy nhân cách người phạm tội là gì ?
Nhân cách người phạm tội là tổ hợp các phẩm chất, các thuộc tính
tâm lý cá nhân thể hiện xu hướng chống đối xã hội và thái độ tiêu cực đối
1
với các lợi ích, các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ, luôn lựa
chọn ý đồ và thực hiện hành vi phạm tội.
Đây là một điển hình của nhân cách không hợp chuẩn, nhân cách có
sự lệch lạc trong định hướng giá trị xã hội, với nhận thức, quan điểm sai trái,
tình cảm tiêu cực và có hành vi xâm phạm đến các quan hệ xã hội được pháp
luật hình sự bảo vệ. Những khiếm khuyết trong nhân cách người phạm tội có
thể là hậu quả của quá trình chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố xã hội tiêu
cực, của quá trình tham gia vào các nhóm, các quan hệ xã hội không lành
mạnh nhưng đồng thời cũng là hệ quả tất yếu của sự buông lỏng, không chịu
rèn luyện bản thân của cá nhân.
2. Cấu trúc nhân cách người phạm tội
Nếu xem nhân cách là một tổ hợp phức hợp của những yếu tố như xu
hướng, tính cách, năng lực và khí chất thì đều thấy sự suy thoái, sự phát triển
lệch hướng của các yếu tố này trong nhân cách người phạm tội.
Xu hướng nói lên chiều hướng phát triển của nhân cách, nhân cách
phát triển từ đâu, theo chiều hướng nào là do xu hướng qui định. Xu hướng
bao gồm nhu cầu, hứng thú, lý tưởng, thế giới quan, niềm tin.
Nhu cầu và sự thỏa mãn nhu cầu của cá nhân là động lực thúc đẩy
hoạt động, điều chỉnh hành vi của cá nhân. Nhu cầu của con người rất phong
phú và đa dạng. Nó gắn liền với điều kiện lịch sử, sự phát triển sản xuất và
sự phân phối các giá trị vật chất, tinh thần. Nhu cầu và sự thỏa mãn nhu cầu
là vô tận, hay nói khác đi con người không bao giờ thỏa mãn hết mọi nhu
cầu của mình. Khi nhu cầu được nhận thức và so sánh nó với những điều
kiện, công cụ, con đường thỏa mãn nhu cầu thì đó là lợi ích. Con người chỉ
thực sự hành động khi có lợi ích. Người phạm tội hướng tới những lợi ích
mà những lợi ích đó đối lập với lợi ích xã hội, xâm phạm tới lợi ích chính
đáng và hợp pháp của người khác.
Trong nhân cách của người phạm tội thiếu sự cân bằng giữa các loại
nhu cầu và hứng thú là một đặc trưng cơ bản. Nhu cầu và hứng thú vật chất
cao hơn, chiếm ưu thế hơn so với nhu cầu tinh thần và nhu cầu xã hội. Nói
cách khác trong nhân cách của họ nhu cầu cấp thấp phát triển hơn nhu cầu
2
cấp cao và chiếm vị trí chủ đạo, lấn át nhu cầu tinh thần và xã hội. Đây là
đặc điểm đặc trưng biểu hiện ở sự suy thoái nhân cách ở người phạm tội.
Trong nhu cầu và hứng thú ở người phạm tội cũng thường xuất hiện
tính chất không bình thường. Một số nhu cầu, hứng thú của người phạm tội
bị suy thoái, biến chất mang theo tính sinh vật, bản năng, như: thích ăn chơi,
hưởng lạc, ham thích vật chất tầm thường. Hầu như ở họ không có nhu cầu
lao động, nhu cầu học tập nâng cao trình độ hiểu biết để phục vụ xã hội,
không có nhu cầu đóng góp phần mình cho sự phát triển xã hội vì lợi ích
chung.
Phương thức thỏa mãn nhu cầu, hứng thú của người phạm tội trái với
các chuẩn mực đạo đức, vi phạm các quy tắc xử sự pháp luật, xâm hại lợi ích
xã hội. Những người phạm tội không có khả năng giải quyết mâu thuẫn nội
tại trong con người làm động lực cho sự phát triển nhân cách. Đó là mâu
thuẫn giữa đòi hỏi của nhu cầu cá nhân và sự đáp ứng của xã hội. Người
phạm tội luôn đối lập các lợi ích cá nhân với lợi ích xã hội, xâm phạm tới
quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người khác. Vì tiền hay vì các
nhu cầu thấp hèn khác, người phạm tội có thể vì bất cứ thủ đoạn nào để
chiếm đoạt, sẵn sàng đâm chém, cướp, giết hay dụ dỗ lừa đảo để thỏa mãn
nhu cầu của mình.
Qua nhiều công trình nghiên cứu cho thấy cội nguồn của hành vi
phạm tội không phải ở bản thân nhu cầu mà là ở sự ý thức sai về nhu cầu và
con đường thỏa mãn nhu cầu. Nhu cầu của người phạm tội thường nghiêng
về vật chất, vụ lợi với phương thức thỏa mãn lệch chuẩn xã hội. Thế giới
quan của người phạm tội đa số cũng lệch lạc và u tối, đặc biệt là sự xuyên
tạc đối với chân lý. Ví như nhìn thế giới khép kín trong những “vật chất”
tầm thường, vụ lợi. Người phạm tội sẵn sàng vì đồng tiền, danh lợi, bất chấp
hậu quả nguy hiểm cho xã hội, thậm chí cho cả bản thân do hành vi phạm tội
của chúng gây ra. Vì mục đích chính trị phản động, chúng sẵn sàng đặt bom
nơi đông người qua lại, bất chấp hậu quả sát thương nhiều quần chúng để cốt
gây tiếng vang…
Thế giới quan, niềm tin ở người phạm tội phát triển lệch lạc khác với ở
con người bình thường trong xã hội. Thế giới quan của người phạm tội được
3
hình thành trên cơ sở các quan niệm, quan điểm, nhận thức lệch lạc sai trái.
Người phạm tội thường có lối sống không lành mạnh, tôn thờ chủ nghĩa vật
chất ích kỷ, mang nặng chủ nghĩa cá nhân. Quan niệm sống đơn giản mang
đầy mầu sắc hưởng thụ đã chi phối, điều chỉnh mục tiêu sống của người
phạm tội.
Chẳng hạn: các đối tượng lưu manh, trộm cắp, những tên tội phạm
chuyên nghiệp, tái phạm nguy hiểm thường tôn thờ chủ nghĩa hiện sinh,
sống ngày hôm nay không biết ngày mai, sống để hưởng lạc để vui thú.
Niềm tin đã mất hết ý nghĩa đúng đắn và thiêng liêng giữa con người
với nhau (hầu như trong các bản tự thuật của người phạm tội đều nói lên sự
mất mát tình thương, bản thân họ không còn tin ai, kể cả người ruột thịt).
Niềm tin đã phát triển lệch lạc, tin vào sức mạnh bạo lực, sức mạnh của
đồng tiền. Nói một cách khác, ở họ đã mất hết niềm tin vào những giá trị
nhân bản của xã hội, vào mối quan hệ trong sáng, cao đẹp và thiêng liêng
của con người. Những người phạm tội như vậy không có lý tưởng theo đúng
nghĩa của nó. Như vậy trong hầu hết các biểu hiện của xu hướng nhân cách
đều phát triển lệch chuẩn.
Tính cách: Đó là hệ thống thái độ biểu hiện qua hệ thống hành vi
quen thuộc. Tính cách người phạm tội, nhất là của những đối tượng phạm tội
chuyên nghiệp, tái phạm nguy hiểm thường bao gồm các nét xấu xa, tiêu
cực. Thái độ của người phạm tội đối với xã hội thường là lệch lạc. Họ sống
chà đạp lên đạo đức và dư luận xã hội, bị chi phối và điều chỉnh bởi các mục
đích phản xã hội. Sống buông thả, tự do, coi thường đạo đức, coi thường
pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên dư luận, bất chấp lẽ phải, kỷ cương.
Chẳng hạn:
Ở các đối tượng phạm tội chuyên nghiệp, tội phạm về ma túy, cướp
của, giết người thường lười biếng, vô kỉ luật nhưng thích ăn chơi, hưởng
thụ, tham lam, hám lợi, hám danh và ích kỷ hay thay đổi lật lọng, coi thường
người khác, nhẫn tâm, tàn bạo, có thái độ thù địch chống đối, ác cảm với
chính quyền, với chế độ biểu hiện ở các mức độ khác nhau tùy theo từng loại
tội phạm. Để đạt mục đích người phạm tội sẵn sàng chà đạp lên tất cả, kể cả
4
tính mạng và nhân phẩm con người, cũng như lợi ích xã hội, lợi ích quốc
gia.
Ở các đối tượng phạm tội về trật tự xã hội, về kinh tế thường có thái độ
và hành vi đi ngược lại lợi ích chung của xã hội, trốn tránh nghĩa vụ công
dân.
Ở các đối tượng xâm phạm an ninh quốc gia lại có hành vi và có thái
độ thù địch, tuyên truyền quan điểm sai trái, chống chế độ hoặc nhen nhóm,
thành lập các tổ chức phản động, hoạt động nhằm lật đổ chính quyền, câu
kết với nước ngoài làm gián điệp, tay sai chống lại Tổ quốc, chống lại nhân
dân.
Tính cách của người phạm tội là kết quả của quá trình thực hiện các
hoạt động phạm tội (thể hiện rõ nhất ở loại tội phạm “chuyên nghiệp”). Cho
nên ở người phạm tội sự “bình tĩnh” mang tính chất thủ đoạn nhằm tránh tội
khi khai báo. “Bản lĩnh” mang nặng tính chất lì lợm nhằm hạn chế đến mức
tối đa những sơ hở trong quá trình “hành nghề”. Hơn bất kì lĩnh vực nào
khác, những “tính cách giả” xuất hiện ở cá nhân khi mới gia nhập nhóm sẽ
chuyển thành tính cách thật khi có sự phát triển và tác động của nhóm không
chính thức tiêu cực tới cá nhân trong một thời gian dài. Do vậy, không phải
ngẫu nhiên trong các trại giam phải rất công phu, dày công thực hiện tổng
thể các biện pháp nhằm phục hồi các nét tính cách tốt cho phạm nhân.
Về năng lực: Hệ thống kĩ năng, kĩ xảo thể hiện tập trung, biểu hiện rõ
nhất năng lực cá nhân - thành tố trong cấu trúc của nhân cách. Trong lĩnh
vực kĩ năng, kĩ xảo, người ta còn nói đến các yếu tố sở trưởng, sở đoản của
cá nhân. Năng lực của cá nhân phát triển theo chiều hướng để đạt hiệu quả
trong hoạt động phạm tội, cho nên năng lực của người phạm tội phát triển ở
cả những lĩnh vực liên quan tới hoạt động phạm tội. Đối với hoạt động phạm
tội thì kĩ năng, kĩ xảo phạm tội rất phát triển, vì thế những hành vi phạm tội
được thực hiện chuẩn xác mau lẹ, kín đáo và thuần thục.
Do bị chi phối bởi xu hướng của hành động phạm tội, nên ở người
phạm tội thường phát triển năng lực với các kỹ năng, kỹ xảo hành động
phạm tội. Chúng thường có khả năng nhanh chóng quan sát các tình huống
phạm tội và nhạy cảm với các hoạt động của cơ quan điều tra. Có năng lực
5
ngụy trang đóng vai để thực hiện hành động phạm tội và che giấu tội phạm,
trốn tránh pháp luật. Năng lực giao tiếp ứng xử phát triển thể hiện ở các kỹ
năng tiếp xúc, làm quen, gây thiện cảm, tác động tâm lý thu thập thông tin
phục vụ cho hoạt động phạm tội. Năng lực này biểu hiện rõ ở các đối tượng
phạm tội chuyên nghiệp, phạm tội lừa đảo, trộm cắp, lợi dụng tín nhiệm, hối
lộ Tùy theo từng loại tội phạm cụ thể, ở người phạm tội phát triển các
thuộc tính, các kỹ năng phù hợp, cấu thành năng lực chuyên biệt giúp họ
thực hiện các hành động phạm tội cụ thể.
Về tình cảm và ý chí: Khác với những người bình thường, đời sống
tình cảm của người phạm tội thường nghèo nàn, các tình cảm cao cấp như
tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mĩ và tình cảm trí tuệ kém phát triển.
Trong đó tình cảm đạo đức bị suy thoái nghiêm trọng, mất chức năng động
cơ thúc đẩy các hành vi xã hội và hoạt động tích cực của con người. Các đối
tượng phạm tội luôn có ác cảm với cácc lực lượng chuyên chính, thù ghét
chế độ Cái thiện bị thay thế dần dần bởi cái ác. Các phẩm chất ý chí tích
cực ở người phạm tội kém phát triển bị lấn át bởi các phẩm chất ý chí tiêu
cực.
Tuy nhiên trong các hành động phạm tội, ở các đối tượng phạm tội
luôn thể hiện tính mục đích cao, tính quyết đoán, sự kiên trì và nỗ lực ý chí
lớn. Tất cả các đặc điểm đó đã giúp đối tượng khắc phục khó khăn, quyết
tâm thực hiện hành động phạm tội để đạt được mục đích của mình. Khi bị
bắt, bị giam giữ điều tra, bọn chúng thường ngoan cố, lì lợm, có đối tượng
sẵng sàng chấp nhận hi sinh , tù tội để bảo vệ tổ chức, bảo vệ đồng bọn
Thành tố cuối cùng làm hoàn thiện bộ mặt tổng thể của cấu trúc nhân
cách chính là khí chất. Khí chất vốn được xem là yếu tố liên quan chặt chẽ
với kiểu thần kinh của con người. Tính ổn định tương đối của khí chất đã
làm cho nó ít chịu tác động trước hoàn cảnh bên ngoài. Tuy nhiên trong quá
trình thực hiện phạm tội với những tình huống “căng thẳng” cản trở việc
thực hiện mục đích, nhiều cá nhân phải “điều tiết” liên tục hệ thần kinh, khí
chất vốn có của mình cho phù hợp với hiện thực. Bởi thế, có những trường
hợp người phạm tội lại có những hành vi “hình như khác xa với hành vi, bản
tính” thường ngày mà mọi người hoặc các bậc cha mẹ hiểu và quá quen
thuộc với con em mình.
6
Tóm lại: Trên đây là những thành phần chủ yếu trong nhân cách người
phạm tội. Không có một thành phần nào, ngay cả yếu tố được coi là ổn định
nhất của cấu trúc nhân cách người phạm tội lại không bị suy thoái hoặc thoát
khỏi tình trạng chệch hướng.
Tuy nhiên, đối mỗi loại tội phạm cụ thể lại có những nét tâm lí riêng,
khác biệt hoặc giữ vị trí khác nhau trong cấu trúc nhân cách của họ. Nắm
vững và hiểu sâu sắc về nhân cách người phạm tội có ý nghĩa quan trọng,
giúp ta có căn cứ để phân loại tội phạm đúng đắn, lựa chọn phương pháp,
chiến thuật phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả công tác điều tra, xử lý tội
phạm. Việc nghiên cứu đặc điểm nhân cách người phạm tội còn có ý nghĩa
to lớn trong việc tác động giáo dục, phòng ngừa tội phạm có hiệu quả.
3. Các kiểu nhân cách người phạm tội
Có nhiều cách phân loại khác nhau:
Cách thứ nhất theo A.I.Đôngôva thì có 3 loại:
- Loại hình nhân cách phạm pháp có hệ thống: Người có nhân cách
loại này, họ không chỉ lợi dụng hoàn cảnh mà còn tự bản thân tạo ra hoàn
cảnh, vượt qua mọi trở ngại để thực hiện âm mưu tội lỗi, hành vi phạm tội
đã trở thành thói quen xử sự ở họ.
- Loại hình nhân cách phạm pháp do chuẩn mực đạo đức, pháp luật
lỏng lẻo không nghiêm. Lối sống đã hình thành trước đây trong sự tác động
với tình huống chuẩn mực đạo đức, pháp luật lỏng lẻo, không nghiêm đã dẫn
đến hành vi phạm tội
- Loại hình nhân cách bối cảnh: Người có nhân cách loại này thường
có hành vi phạm tội xảy ra trong hoàn cảnh xung đột. Ở đây hành vi phạm
tội xảy ra tựa như kích thích phản ứng (song sự thực không phải kích thích -
phản ứng vì tuy hoàn cảnh có xung đột nhưng cá nhân có phạm tội hay
không còn phụ thuộc vào đặc điểm nhân cách của người đó lúc tiến hành
hành vi)
Cách chia thứ hai: Căn cứ vào mức độ của những đặc điểm, phẩm
chất tâm lý tiêu cực để phân loại về nội dung và cách chia cũng tương tự như
trên:
7
- Nhân cách “tội phạm toàn thể”: Người có nhân cách thuộc loại này
thường có thái độ xấu với xã hội, hành vi phạm tội được định hình, cuộc
sống không ngoài tội phạm, thường xuyên gắn liền với tính toán, hoạt động
phạm tội, không dao động ngả nghiêng trong hoạt động phạm tội (thường
thấy ở tội phạm lưu manh chuyên nghiệp, tái phạm nhiều lần…)
- Nhân cách “tội phạm cục bộ” có sự phân đôi các phẩm chất, vừa có
những phẩm chất hợp chuẩn, vừa có phẩm chất không hợp chuẩn (thường
thấy ở những người phạm tội tham ô, hối lộ, buôn lậu…)
- Nhân cách “tội phạm tiểu cục bộ”: Trong nhân cách loại này có vài
phẩm chất tâm lý tiêu cực mà trong tình huống nhất định đã thúc đẩy cá
nhân phạm tội (phạm tội do thúc đẩy của cảm xúc tình huống ghen tuông,
tức giận thách đố, xúc phạm danh dự của nhau)
Cách chia thứ ba: Căn cứ theo khách thể bị xâm hại và đặc điểm hành
vi phạm tội có thể chia thành 3 loại sau đây:
Nhân cách người phạm tội vụ lợi: Đây là loại nhân cách có định
hướng sống thể hiện rõ tính vụ lợi trong hoạt động, giao tiếp, quan hệ, ứng
xử. Thường xử dụng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt trong hoạt động phạm tội và
trong cuộc sống hàng ngày. Xu hướng vụ lợi là nhân tố nòng cốt của hành vi
cá nhân. Nguyên nhân của loại tội phạm này không nên tìm ở động cơ vụ lợi
mà ở các nhân tố hình thành tâm thế vụ lợi của nhân cách. Loại nhân cách
này thường có kiểu hành vi đặc biệt, đó là sự lệ thuộc tình huống của hành
vi.
Nhân cách người phạm tội bạo lực: Đây là loại nhân cách với các
phẩm chất điển hình như tính ích kỉ cao, không có thái độ dung hòa khi lợi
ích cá nhân bị va chạm, tính quyết đoán cao,nhẫn tâm, tàn bạo, coi thường
người khác, thường sử dụng bạo lực trong giải quyết xung đột, mâu thuẫn,
khả năng kiềm chế, ổn định cảm xúc kém, đời sống tình cảm nghèo nàn, đặc
biệt là các tình cảm cấp cao như: tình cảm đạo đức, thẩm mỹ, trí tuệ.
Nhân cách người phạm tội vụ lợi- bạo lực: Đây là loại nhân cách có sự
pha trộn, kết hợp các đặc điểm nhân cách của các loại trên.
8
Cách chia thứ tư: Căn cứ vào ý thức trong hoạt động phạm tội có thể
chia thành 2 loại sau
Nhân cách người phạm tội chuyên nghiệp, tái phạm: Người phạm tội
chuyên nghiệp thông thường cũng là những người tái phạm tội. Những
người thuộc kiểu nhân cách tái phạm tội luôn coi thường pháp luật, hành vi
phạm tội luôn được tiến hành bằng các phương pháp thuần thục và trở nên
quen thuộc, ổn định. Do bị kết án nhiều lần nên sức khỏe và tâm lí của họ bị
giảm sút, cấu trúc động cơ thấp hèn ngày càng chiếm vị trí rõ nét (suy đồi
đạo đức nặng nề, lệch lạc tính cách, hành vi không thích ứng, biến dạng vai
trò xã hội).
Phần lớn những người tái phạm tội có rối loạn, lệch lạc tâm lí. Hành
vi có dấu ấn của sự buông thả, dễ phát khùng, tục tằn thù địch với những
người xung quanh. Điều kiện sống bất lợi, cùng với quá khứ tù tội dễ làm họ
mất đi cảm giác sự hãi bị trừng phạt. Những khiếm khuyết về khả năng tự
điều chỉnh kết hợp với các định hướng chống đối xã hội, sự lệ thuộc vào tình
huống là đặc điểm tâm lí cơ bản của nhân cách người tái phạm tội. Hành vi
của họ nhiều khi đối lập ới ý nghĩa thông thương, với lợi ích của chính họ.
Mục đích không phù hợp với phương tiện, quyết định không hợp lí, hành
động thiếu chín chắn, không dự báo được kết quả gần nhất của hành động.
Một trong những biểu hiện tâm lý phổ biến của đa số nhứng người tái phạm
tội là sự thờ ơ với khả năng bị trừng phạt, với dư luận xã hội.
Nhân cách người phạm tội vô ý: Trái ngược với những phạm tội
chuyên nghiệp, người tái phạm tội, những người vô ý phạm tội lại không có
động cơ, mục đích phạm tội. Nhìn chung họ là những công dân bình thường,
không cố ý phạm tội, nhưng là những người thiếu tự giác, tuân thủ kỷ luật,
kém khả năng kiềm chế, tự chủ. Trong tình huống phạm tội, các phẩm chất
tâm lý của nhân cách bộc lộ rõ như: tính chủ quan, cẩu thả, sự lệ thuộc vào
tình huống. Tính chủ quan thường đưa họ đến các vi phạm các quy tắc
phòng ngừa, không nhận thấy hậu quả tiêu cực có thể xảy ra trong hành vi
của mình. Cũng có thể các hành động của họ xảy ra trong tình huống vô ý,
bất cẩn hoặc có sự quá tải tâm, sinh lí, trạng thái xúc cảm tiêu cực, say
rượu
9
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách người phạm tội
Sự hình thành nhân cách người phạm tội, những khiếm khuyết trong
nhân cách người phạm tội có thể là hậu quả của một quá trình hình thành
những nét tâm lý lệch lạc hoặc là hệ quả của quá trình suy thoái nhân cách.
Từ một người bình thường trở thành một người phạm tội ít khi là hiện
tượng, sự kiện bất ngờ mà thường là quá trình suy thoái nhân cách. Có 2 quy
luật của sự suy thoái nhân cách:
Quy luật thứ 1: Sự phát triển tâm lý hành vi tiêu cực theo hướng dao
động dần.
Một số vi phạm chuẩn mực này thông thường làm cho những vi phạm
chuẩn mực khác dễ dàng hơn theo chiều hướng ngày càng xấu đi. Hoặc ngay
trong cùng một loại chuẩn mực, mức độ vi phạm của cá nhân cũng theo
chiều hướng ngày một tăng.
Quy luật thứ 2: Sự phát triển tâm lý hành vi tiêu cực theo tuyến.
Những tâm lý hành vi tiêu cực hình thành theo một chiều hướng, thể hiện
thống nhất trong các hoàn cảnh khác nhau, với sự gia tăng phương thức thủ
đoạn phạm tội, nhất là khi phải “khắc phục” trở ngại, khó khăn của hoàn
cảnh để phạm tội. Ví dụ: Người có tâm lý tham lam thì trong vị trí công tác,
hoàn cảnh nào cũng đều tìm cách trục lợi, thủ đoạn ngày càng tinh vi: từ chỗ
lợi dụng hoàn cảnh theo kiểu mượn gió bẻ măng, tăng dần đến chỗ tạo ra
hoàn cảnh, vấn đề, thậm chí bất chấp hoàn cảnh để trục lợi.
Sự suy thoái nhân cách của mỗi người phạm tội có thể theo một hoặc
cả hai quy luật trên, nhưng thường cả hai quy luật đan xen tác động.
Sự suy thoái nhân cách của người phạm tội thể hiện cụ thể như sau:
Quá trình suy thoái nhân cách có biểu hiện quan trọng đầu tiên là sự
suy thoái đạo đức vì sự phát triển đạo đức của cá nhân là một trong những
chuẩn mực nói lên sự phát triển nhân cách, ý thức đạo đức nói lên mối liên
hệ của con người với những giá trị xã hội. Con người chỉ tích cực hành động
khi gắn với một hệ giá trị nhất định. Hệ giá trị đó được cá nhân hóa và nó sẽ
xác định tính lựa chọn, tích cực của tâm lý con người. Do vậy, có những cái
quan trọng với cuộc sống của người này lại không có hoặc có ít giá trị với
10
người khác. Cũng giống như những hành vi có ý thức khác, hành vi phạm tội
đều được định hướng bởi một hệ giá trị nhất định. Hệ giá trị của người phạm
tội chủ yếu mang tính tiêu cực, không phù hợp với hệ giá trị của đông đảo
tầng lớp nhân dân. Vì vậy, làm rõ những giá trị xã hội mà cá nhân phủ định
sẽ xác định được mức độ suy thoái của nhân cách.
Mặc khác cũng cần nhận thức rằng: Khi ít nhiều nhận thức được hành
vi phản xã hội của mình, người phạm tội thường đưa ra lý do tự bào chữa, và
bình thường hóa những giá trị cản trở quá trình đạt tới mục đích phạm tội.
Những nguyên nhân của hành vi phạm tội được chúng đổ lỗi cho hoàn cảnh,
cho người khác chứ không thấy đó là những biểu hiện tiêu cực của chính
mình, không công nhận ở mình những nét tâm lý bị xã hội lên án. Có thể gọi
vấn đề này là sự tự biện hộ và tự vệ về mặt tâm lý của người phạm tội. Bởi
vì, ít khi người phạm tội lên án chân thực những hành động của mình. Việc
vạch ra lỗi của bản thân chỉ thấy trong lời khai của rất ít những người phạm
tội giết người, trộm cướp, còn bọn côn đồ và tham ô lại càng ít hơn. Trách
nhiệm đối với hành vi phạm tội được chúng đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho người
khác đến khi trách nhiệm được xác định thì người phạm tội giở các thủ thuật
khác nhau: Gạt bỏ sự thú nhận những yếu tố không hợp ý muốn chủ quan
của mình, “hợp lý hóa” chúng và đổ cho những người khác.
Nói chung, sự suy thoái nhân cách của người phạm tội thường gắn
liền với những đổ vỡ của hệ chuẩn mực giá trị xã hội trong tâm lý của họ,
mà hình thành nên hệ giá trị mang tính chất chủ nghĩa cá nhân, có tính chất
tiêu cực.
Tâm lý học tội phạm cho rằng, hành vi phạm tội của một người là do
sự chi phối của các yếu tố bên trong và bên ngoài khác nhau. Trước hết hành
vi phạm tội của họ là do những yếu tố tâm lý tiêu cực bên trong với tư cách
là động cơ chi phối thúc đẩy. Nói cách khác chính những phẩm chất tâm lí
tiêu cực đã hình thành ở cá nhân là cơ sở cho việc nảy sinh động cơ, mục
đích phạm tội và trong những điều kiện nhất định sẽ dẫn cá nhân đến thực
hiện hành động phạm tội. Các yếu tố tâm lí tiêu cực nảy sinh do tác động
của những quan hệ xã hội không phù hợp, là hậu quả của quá trình tham gia
vào các hoạt động tiêu cực cũng như những thiếu sót trong quá trình xã hội
hóa con người.
11
Như vậy, các yếu tố xã hội là cơ sở của việc hình thành các yếu tố tâm
lí. Các yếu tố tâm lí là cơ sở để hình thành mục đích, động cơ phạm tội. Và
nhân tố hoàn cảnh, tình huống là điều kiện để cá nhân thực hiện hành động
phạm tội.
4.1.Các yếu tố bẩm sinh di truyền
Yếu tố bẩm sinh di truyền ở đây được hiểu là các đặc điểm về cấu tạo,
chức năng giải phẫu sinh lý của con người, chủ yếu là bộ não, hệ thần kinh
và các giác quan.
Yếu tố bẩm sinh di truyền có vai trò là cơ sở, là tiền đề vật chất cho
sự hình thành và phát triển nhân cách nói chung và nhân cách người phạm
tội nói riêng. Chính những đặc điểm tâm lí này dưới ảnh hưởng của môi
trường xã hội và trong những điều kiện nhất định có thể nảy sinh thành động
cơ và chi phối hành vi phạm tội của con người.
Tuy nhiên trong khoa học pháp lí, sinh học và tâm lí học vẫn tồn tại
những quan điểm cực đoan, tuyệt đối hóa vai trò của yếu tố sinh vật. Một số
người cho rằng, tội phạm gắn liền và được định sẵn trong chương trình phát
triển của cơ thể.
Chẳng hạn: C.Lômbroso, nhà tội phạm học người Ý quan niệm,
nguyên nhân hàng đầu của tội phạm chính là ở trong con người và coi những
dị dạng về sinh lý, giải phẫu bẩm sinh là nguyên nhân có tính chất quyết
định dẫn cá nhân đi vào con đường phạm tội
Trong thực tế, hành vi phạm tội, luôn được nghiên cứu trong mối quan hệ
phối hợp "môi trường - người phạm tội". Nhưng khi đó, yếu tố nào trong số
hai yếu tố trên sẽ đóng vai trò hàng đầu và quyết định nhất đối với nguồn
gốc phát sinh tội phạm? Vấn đề này được giải quyết khác nhau:
- Vào thế kỷ thứ XIX đã diễn ra cuộc tranh luận quyết liệt giữa hai quan
điểm đối lập nhau: quan điểm thứ nhất được thể hiện khá đầy đủ trong các
công trình của Lômbôrôđơ. Lômbôrôđơ cho rằng nguyên nhân hàng đầu của
tội phạm chính là ở trong con người và coi những dị dạng về sinh lý giải
phẫu bẩm sinh và những đặc tính tâm lý của người phạm tội là nguyên nhân
có tính chất quyết định. Lômbôrôđơ viết: Đối với những trẻ em đã có "vết
12
nhơ di truyền" thì "việc giáo dục sẽ là vô ích". Quan điểm thứ hai đối lập với
quan điểm thứ nhất do Lakasan đề xướng.
- Hai nhà nghiên cứu Sen-đôn và Elêôragơluo đã nghiên cứu 67 yếu tố
tâm lý sinh học và 42 yếu tố văn hóa xã hội đối với 500 người phạm tội và
500 người không phạm tội. Họ đi đến kết luận rằng, các dấu hiệu văn hóa xã
hội rất ảnh hưởng tới những người thuộc dạng trung bình, có nội tâm và
ngoại hình khác nhau.
- Các công trình nghiên cứu ở Anh, Mỹ, úc và ở một số nước tư bản khác
đã cho thấy rằng, tỷ lệ biến dị nhiễm sắc thể giữa những người phạm tội
được nghiên cứu cao hơn so với nhóm người được khảo sát.
Ngày nay, các khoa học pháp lý và tâm lý học tội phạm khẳng định
rằng: Không phải con người sinh ra đã là tội phạm, tội phạm không có sẵn
trong gen di truyền. Khoa học tâm lý và pháp lí phê phán nghiêm khắc ý đồ
sinh vật hóa hành vi phạm tội và các nguyên nhân của hành vi phạm tội.
Thực chất vấn đề là ở chỗ, không thể tách rời đặc điểm về sinh vật của con
người ra 1 dạng thuần túy nào đó và cũng không thể đặt vấn đề tách rời mặt
xã hội và sinh vật. Cái sinh vật và cái xã hội tạo nên nhân tố sinh vật – xã
hội có hệ thống quy định hành vi con người.
Các hành vi lệch chuẩn không do yếu tố di truyền quy định. Đặc điểm
di truyền của cá nhân không phải là nguyên nhân biệt lập của hành vi phạm
tội nhưng có thể quy định sự tương tác của cá nhân với các yếu tố xã hội.
Ảnh hưởng xã hội trong hành vi con người luôn có quan hệ chặt chẽ với yếu
tố tự nhiên.
Chẳng hạn: Tính hung bạo của cá nhân, là cơ sở của nhiều tội phạm,
bị quy định bởi tổ hợp các nhân tố sinh vật – xã hội. Sự hung bạo có thể
mang tính chất hẫng hụt, bột phát và kích động. Đây là một nét nhân cách ổn
định hình thành trong sự phát triển tâm lí bất lợi của nhân cách.
Trong các công trình nghiên cứu tội phạm gần đây, các nhà tâm lý học
tội phạm (A.Bukhanôpxki. V.L.Vaxiliep ) đã chứng minh rằng có sự liên
quan chặt chẽ giữa yếu tố sinh vật với môi trường xã hội trong việc hình
thành nhân cách người phạm tội.
13
Chẳng hạn: Đối với một số người phạm tội, nhất là những người
phạm tội bạo lực như: giết người hàng loạt, giết người với những tình tiết
man rợ đều là những người có sự rối loạn nhân cách mà nguyên nhân gây
ra sự rối loạn đó luôn gắn chặt với yếu tố bẩm sinh, chẳng hạn bộ não có
những khiếm khuyết nhất định Các công trình nghiên cứu về lệch lạc tâm lí
(bệnh thái nhân cách, tính cách trội lệch, chậm phát triển trí tuệ, nhiễu tâm,
lệch lạc tính dục) đã cho thấy tự thân các lệch lạc tâm – sinh lí không phát
sinh tội phạm, nhưng trong những điều kiện nhất định của đời sống cá nhân
chúng có thể đóng vai trò là điều kiện của hành động phạm tội.
Như vậy, yếu tố sinh vật có ảnh hưởng nhất định đến những đặc điểm
tâm lí trong nhân cách người phạm tội, là cơ sở, tiền đề của hành vi phạm tội
nhưng không quyết định hành vi phạm tội của cá nhân. Đây là vấn đề có ý
nghĩa phương pháp luận trong nghiên cứu đánh giá tâm lí, nhân cách người
phạm tội.
4.2. Các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách người
phạm tội
Nhân cách người phạm tội khác với các nhân cách tích cực khác trong
xã hội, đó là một nhân cách lệch chuẩn điển hình. Tuy nhiên nhân cách nói
chung và nhân cách người phạm tội nói riêng đều được hình thành trong quá
trình hoạt động thông qua sự tác động qua lại tích cực giữa cá nhân và môi
trường sống. Trong quá trình đó 1 số người phát triển lệch lạc, hình thành
những phẩm chất tâm lí tiêu cực không phù hợp với các giá trị xã hội như:
sự ích kỉ, tính tham lam, sự ham muốn vật chất tầm thường, lòng đó kị hay
quan điểm sai lầm, ảo tưởng, tình cảm hận thù, chống đối tâm lý học gọi
là sự suy thoái nhân cách. Do đó việc phân tích các yếu tố xã hội ảnh hưởng
đến sự hình thành những đặc điểm tâm lí tiêu cực có thể dẫn cá nhân đến
con đường phạm tội có ý nghĩa rất quan trọng.
Trước hết là sự tác động, ảnh hưởng của tàn dư chế độ cũ, nhất là tàn dư
của hệ tư tưởng phản động của giai cấp bóc lột cũ, hệ tư tưởng lạc hậu, cực
đoan của các loại tôn giáo Tàn dư của chế độ cũ của xã hội luôn là một
nhân tố xã hội ảnh hưởng, tác động lâu dài đến các mặt của đời sống xã hội,
là yếu tố khách quan làm nảy sinh tư tưởng, tình cảm và những phẩm chất
14

Xem chi tiết: CH__NG 2 NHAN CACH NPT


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét