Nôm. Ngoài ra, những tài liệu liên quan đến các nhân vật mang tên Nguyễn
Khắc Trạch sống dưới triều Nguyễn cũng là đối tượng nghiên cứu của luận văn.
- Phạm vi nghiên cứu: Trong điều kiện tư liệu hiện có, và với điều kiện khả
năng cho phép tiến hành việc khảo sát, so sánh, đối chiếu và làm thư mục của 7
tác phẩm bao gồm cả thơ lẫn văn.
4. Phương pháp tiến hành:
4.1. Phương pháp văn bản học:
Do yêu cầu nghiên cứu văn bản, luận văn sẽ vận dụng các phương pháp của
văn bản học, bắt đầu là việc thu thập đầy đủ văn bản nhóm tác phẩm mang tên
Nguyễn Khắc Trạch mà cuốn DSHNVN-TMĐY đã nêu trong thư mục. Thứ đến,
tiến hành mô tả vật lý, đọc văn bản, xử lí các nội dung chứa trong văn bản, làm
thư mục các bài thơ bài văn để so sánh đối chiếu nhằm tìm ra bản tiêu biểu nhất,
đáng tin cậy nhất. Ngoài ra còn tìm hiểu về quá trình truyền bản, chữ kiêng húy
để xác định niên đại của văn bản.
4.2. Phương pháp thống kê, so sánh đối chiếu, phân tích chứng minh.
Luận văn thống kê những cứ liệu liên quan đến thân thế và sự nghiệp của
các vị Cử nhân Nguyễn Khắc Trạch trong và ngoài tác phẩm (nội chứng, bàng
chứng) để từ đó tiến hành so sánh đối chiếu, từ đó chứng minh ai là tác giả đích
thực của nhóm văn bản này.
5. Đóng góp mới của luận văn.
Thứ nhất, trên cơ sở thu thập văn bản những tác phẩm mang tên Nguyễn
Khắc Trạch hiện còn, tiến hành nghiên cứu văn bản tìm ra bản đáng tin cậy nhất,
đây là điều trước đây chưa ai làm. Đồng thời, lập thư mục số lượng các bài trong
các dị bản, tiến hành so sánh đối chiếu sự tương đồng và dị biệt để đi đến xác
định số lượng các bài thơ, bài văn đích thực của tác giả là bao nhiêu.
Thứ hai, từ các nội chứng trong tác phẩm, kết hợp với những bàng chứng
về thân thế và sự nghiệp của tác giả, luận văn đã chứng minh được ai là tác giả
đích thực của nhóm tác phẩm này, nhằm đem lại quyền tác giả cho tác phẩm.
Tránh tình trạng từ một ngộ nhận của một học giả đi trước mà kéo theo bao nhận
định sai lầm khác của các thế hệ kế sau.
6. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, luận văn có 3 chương như sau:
5
Chương 1: Về văn bản những tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch
hiện còn.
Chương 2: Ai là tác giả đích thực của nhóm tác phẩm trên.
Chương 3: Sơ bộ tìm hiều giá trị nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm.
Cuối luận văn là phần Phụ lục (phần trích dịch những bài mà trong luận văn
đã đề cập đến trong Chương 2 và Chương 3)
6
Chương 1
VỀ VĂN BẢN NHỮNG TÁC PHẨM MANG TÊN NGUYỄN KHẮC TRẠCH
HIỆN CÒN
1.1. Tình trạng văn bản.
Sách Di sản Hán Nôm Việt Nam-Thư mục đề yếu (DSHNVN-TMĐY)
cho biết văn bản những tác phẩm mang tên Nguyễn Khắc Trạch tại thư viện
Viện nghiên cứu Hán Nôm còn có 9 bản. Tên gọi các tác phẩm phần lớn có hai
từ chung đứng đầu là “Nhuế Xuyên”, cũng có bản viết là “Nhuế Giang” hay
“Thuấn Nhuế”. Theo nội dung bài thơ “Tân định danh hiệu trình Vĩnh Lăng nhị
thú đài” trong tác phẩm Nhuế Xuyên tùy bút thi tập, thì “Nhuế Xuyên” là tên hiệu
của Nguyễn Khắc Trạch tự đặt cho mình. Vậy có thể tên gọi các tác phẩm như
thế là do tác giả tự ghi, cũng có thể do người sưu tầm sao chép số thơ này tự ý
ghi vào. Tên cụ thể của các văn bản là:
(1) Nhuế Xuyên thi tập. Kí hiệu A.444
(2) Nhuế Xuyên thi tập. Kí hiệu VHv.213
(3) Nhuế Xuyên tùy bút thi tập. Kí hiệu VHv.212.
(4) Nhuế Xuyên bạch bút thi tập. Kí hiệu A.517.
(5) Nhuế Xuyên văn tập. Kí hiệu A.2169
(6) Nhuế Xuyên thặng bút văn tập. Kí hiệu VHv.214
(7) Nhuế Xuyên trướng tập. Kí hiệu VHv.215
(8) Thuấn Nhuế thi văn tập. Kí hiệu A.2538
(9) Thọ tịch châu cơ. Kí hiệu VHv.608
(10) Ngoài ra, thơ, phú của Nguyễn Khắc Trạch còn có chép trong nhiều
tác phẩm của người khác. Như thơ của Nguyễn Khắc Trạch có chép trong Minh
đô thi tuyển. Kí hiệu A.2171; Vi giang hiệu tần tập. Kí hiệu VHv.216; Vũ trung
tùy bút. Kí hiệu A.2312. Phú có chép trong Tam đăng Hoàng Giáp trường phú.
Kí hiệu VHv.321.
Ở đây chúng tôi chủ yếu chỉ đi vào mô tả tình trạng văn bản và đi sâu tìm
hiểu các văn bản độc lập của Nguyễn Khắc Trạch, còn thơ văn trướng phú của
ông chép ở tác phẩm của người khác thì chỉ tìm hiểu về phần của Nguyễn Khắc
Trạch ở trong đó mà thôi. Sau đây là tình trạng của từng loại văn bản.
1.1.1. Tình trạng các văn bản thơ.
7
1. Bản Nhuế Xuyên tùy bút thi tập. Kí hiệu VHv.212.
Khổ 15 x 26 cm, viết tay trên giấy dó mỏng đã ố vàng. Bìa có hai tờ: tờ bìa
chính ở ngoài làm bằng giấy các-tông, được quét sơn đen; tờ bìa phụ ở trong
bằng giấy dó, quét sơn màu vàng đất. Trên tờ bìa phụ thứ hai có tem của “Thư
viện khoa học Trung ương”. Sau hai tờ bìa chính và phụ, đến tờ ghi tên tác
phẩm. Tên tác phẩm viết dọc bằng bút lông mực tàu đen, cỡ chữ lớn hơn phần
chính văn. Sau tờ này, còn có hai tờ giấy để trống, rồi mới đến phần chính văn.
Mặt a tờ thứ nhất (trong hai tờ giấy để trống) có dòng chữ Hán “Sơn Tây Yên
Sơn Thuấn Nhuế nhân, Tự Đức tứ thập niên Tân Dậu khoa Cử nhân, quan sử
quán biên tu”. Dòng chữ này viết bằng bút mực xanh của thời nay, nên đây là
chữ của người thời nay mới viết vào. Tiếp đến là phần chính văn. Dòng đầu tiên
của phần chính văn “Nhuế Xuyên tùy bút thi tập quyển chi nhất”. Sau dòng này,
có một đoạn đề bạt (khoảng ba dòng), tiếp đến thơ.
Phần gáy ở hai đầu quét sơn đỏ, để trống một khoảng để viết tên tác phẩm
“Nhuế Xuyên tùy bút thi tập”. Bản này không thấy đánh số trang. Phần chính văn
tổng cộng 189 trang, mỗi trang văn bản được chép 8 dòng, mỗi dòng có khoảng
23 đến 24 chữ. Cả bản đều chép thơ, tổng cộng 422 bài. Tên các bài thơ đều viết
án xuống nên rất dễ nhận ra. Thơ vừa có tứ tuyệt vừa có thất ngôn bát cú, cũng
có lẫn vài bài ngũ ngôn và thất ngôn trường thiên. Riêng trong “Nhuế Xuyên tùy
bút quyển chi nhất” đều làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt; còn các quyển sau thì
chủ yếu là thơ thất ngôn bát cú. Trong thơ có rất nhiều phụ chú và cước chú, gần
như bài nào cũng có. Cước chú và phụ chú, cỡ chữ nhỏ hơn chính văn.
Dấu tích đọc duyệt văn bản được thể hiện qua màu mực đỏ gạch, viết bằng
bút lông, dùng trong các trường hợp như ngắt câu, bổ sung chữ thiếu, xóa chữ
viết sai, đồng thời viết chữ đúng theo cách nhìn của người đọc duyệt văn bản.
Nét bút duyệt này ở q1và q4 chỉ dùng để ngắt câu, không thấy có sửa chữa hay
thêm bớt gì. Ở q2 và q3 việc thêm chữ, thêm câu chú, gạch bỏ sửa lại xuất hiện
tương đối nhiều. Tính ra có đến khoảng 45 chỗ. Có những chỗ thêm cả câu chú
vào văn bản, như ở trên cùng d8 t77 thêm vào mấy chữ “Lê thần dĩ hạ”; bên phải
d6 t80 thêm vào mấy chữ “Thiên cổ trung nhất can bút họa xuất”; bên phải d6
t104 thêm vào mấy chữ “Thiếu bảo Bùi Tuấn dã” vv. Ngoài ra, dấu bút duyệt
8
còn đánh dấu các danh từ riêng, địa danh, nhân danh, niên hiệu và khuyên tròn
bên cạnh một số câu chữ nào đó.
Về chữ húy, chữ “thời” trong toàn văn bản đều nhất quán viết kiêng húy
thành chữ “thìn” ví dụ ở d5 t20, d8 t167, d5 t167, d7 t171, d1 t174 …
Văn bản không có mục lục, nhưng xem hết lượt thấy cả bản chia làm bốn
quyển cộng với một phần cuối chia tác phẩm theo thời gian sáng tác. Thứ tự các
quyển và phần phụ thêm cụ thể như sau:
- “Nhuế Xuyên tùy bút thi tập quyển chi nhất” từ t1 đến d7 t41.
- “Nhuế Xuyên tùy bút thi tập quyển chi tứ” từ d8 t41 đến hết t76.
- “Nhuế Xuyên thi tập quyển chi nhị” từ t77 đến d1 t147, cộng với một phần
phụ thêm ở cuối quyển 3 từ t165 đến t170, phần phụ thêm chắc do người chép
bổ sung.
- “Dĩ hạ tại đệ tam quyển” từ d2 t147 đến t163. Giữa quyển ba và phần
chép thêm của quyển hai để trống một mặt giấy. Tên quyển ba không trình bày
như ba quyển trên, tức tên quyển không viết chữ to bằng chính văn và viết giống
quyển 1 và quyển 4 theo kiểu “Nhuế Xuyên tùy bút thi tập quyển chi…” mà viết
bằng cỡ chữ nhỏ như phụ chú dưới mục đề của một bài thơ, tức chỉ viết “dĩ hạ
tại đệ tam quyển”, sau bài cuối cùng quyển này còn chú cho rõ thêm “hữu tại đệ
tam quyển”.
- “Nhuế Xuyên thi tập, nc: Đinh Sửu dĩ hạ”, từ t171 đến t189 (đến hết). Phần
này không chia theo quyển mà chia theo trình tự thời gian sáng tác. Năm sáng
tác được ghi chú ngay dưới tên phần thơ đó.
Như vậy bản này vừa chia theo quyển vừa chia theo trình tự thời gian sáng
tác. Các quyển trong văn bản cũng không đặt theo trình tự, q4 lại đặt lên trước
q2 và q3, có lẽ khi sưu tập thơ của tác giả, người chép tìm thấy q4 trước.
Trong cả bản, có ba loại chữ khác nhau. Cụ thể là: q1 và q4 (t1 đến t53)
viết cùng một loại chữ, chữ viết theo thể hành, có nhiều chữ viết theo giản thể,
nhưng ít chữ viết ngoáy, nét viết hơi tròn. Sang q2 và q3 (t74 đến t170) nét bút
nhìn tổng thể khác với phần trên, cũng viết theo thể hành, có nhiều chữ viết
thảo, đá thảo, nét bút phóng khoáng hơn, thể hiện rõ nét thanh nét đậm, vuông
thành sắc cạnh hơn phần trước. Phần “Nhuế Xuyên thi tập, Đinh sửu niên dĩ hạ”
9
(t171 đến t189) nét chữ khác với hai phần trên, chữ viết theo thể hành, cũng có
chữ đá thảo. Đơn cử ra đây cách viết chữ “聲 thanh” ở trong 3 loại chữ:
Ở q1 và q4, chữ này được viết theo dạng chữ giản thể của thời hiện đại 声,
các nét rõ ràng như ở d6 t2, d7 t3, d2 t13, d3 t19, d4 t20, d5 t35, d5 t38, d2 t43,
d1 t53, d2 t54, d6 t55, d4 t59, d6 t60, d7 t62, d4 d6 t63…tất cả các chữ “thanh”
trong hai quyển này đều viết theo kiểu giản thể này.
Ở q2 và q3, chữ “thanh” cũng có một số nơi viết theo giản thể nhưng phần
lớn đều viết theo phồn thể và viết thảo, các nét trong chữ gần như viết liền nhau,
như ở: d1 t83, d5 t88, d5 t96, d3 t97, d8 t103, d8 t109, d6 t115, d6 d8 t121, d5
t129, d4 t132, d8 t132, d2 t134, d4 t136, d1 t141, d1 t153, d8 t154, d4 t155, d4
t156, d8 t157, d4 t159, d5 d7 t162…
Ở phần “Nhuế Xuyên thi tập Đinh Sửu niên dĩ hạ”, chữ “thanh” được viết
theo dạng phồn thể, các nét, các bộ phận trong chữ tương đối rõ ràng, chỉ có bộ
“nhĩ” viết tháu giống như con số 3 trong chữ quốc ngữ bây giờ, ví dụ ở: d8t172,
d6t183, d3t185…
Với ba loại chữ khác nhau như thế, cho thấy văn bản này do nhiều người
sao chép.
Trong bản, đầu q1 có một đoạn đề tựa đặt sau dòng “Nhuế Xuyên tùy bút thi
tập quyển chi nhất ” như sau: “Dư nhân bình duyệt bản phủ Thái thú Nguyễn
Phát Khoa, (nc: Thừa Thiên Thành Công) Lịch hoạn thi phổ, mỗi ngộ vị an xứ,
tùy bút cải chính, cựu hủy tân thành, toại vi kỷ tác, hỗn nhập tập trung, chí dư thi
dã. Biệt cư tập thủ, minh phi dư đề dã. Ngự sử cải thụ Thị lang Thuấn Nhuế
Ngoại thôn Nguyễn tiên sinh cẩn thức.” (Ta nhân lúc bình duyệt ‘Lịch hoạn thi
phổ’ của Nguyễn Phát Khoa người xã Thành Công, huyện Quảng Điền, tỉnh
Thừa Thiên là Thái thú ở phủ ta. Mỗi khi gặp chỗ chưa ổn, tiện tay sửa đổi, bỏ
cũ thay mới, bỗng trở thành tác phẩm của ta, rồi chép chung vào trong tập thơ
của ta. Nhưng số thơ này để riêng ở đầu tập, vì chúng nguyên chẳng phải là thơ
làm theo đề của ta. Ngự sử cải thụ Thị Lang Thuấn Nhuế Ngoại thôn Nguyễn
tiên sinh kính cẩn đề tựa). Theo đoạn đề tựa này, nhất là từ “đầu tập”, ở đây
chưa rõ ý của ông “đầu tập” là của “Nhuế Xuyên tùy bút thi tập quyển chi nhất”
hay “đầu tập” là phần đầu của tác phẩm “Nhuế Xuyên tùy bút thi tập” tức cả văn
10
bản, bởi q1 không thấy chia phần. Q1 không chia ra từng phần, nhưng dựa vào
nội dung các bài thơ trong q1 này, thấy có hai phần:
Phần đầu từ bài 1 đến bài 79, nội dung gồm các bài thơ vịnh về núi sông
phong cảnh nhân tài, tập tục, trường sở, lị quán, hàng phố…ở huyện Quảng
Xương và tỉnh thành Thanh Hóa. Bài đầu tiên của phần này là “Quảng Xương
huyện đường” rồi bài “Quảng Xương học xá” vv. Để sau đây cho tiện gọi xin đặt
cho phần này là “Thanh Hóa thi”
Phần sau, từ bài 80 đến bài 138, nội dung gồm các bài thơ vịnh về núi sông,
cảnh vật, nhân tài, tập tục…ở phủ Quốc Oai. Bài đầu tiên của phần này là “Quốc
Oai phủ thành” rồi bài “Quốc Oai phủ học xá” vv. Để sau đây cho tiện gọi cũng
xin đặt cho phần này là “Quốc Oai thi”.
Dưới tiêu đề bài “Quốc Oai phủ thành” của phần “Quốc Oai thi” có cước
chú: “Tập trung đại thú khẩu vẫn” (trong tập này ta thay cho giọng điệu của thái
thú). Nếu như dựa vào câu nói này thì phần này lại là thơ của Khắc Trạch ư? Ở
bản Nhuế Xuyên thi tập, Kí hiệu A.444 cũng có phần “Quốc Oai thi”. Phần
“Quốc Oai thi” ở Nhuế Xuyên thi tập được mang tên “Nhuế Xuyên lịch hoạn thi -
Quốc Oai thi thảo”, không thấy viết lời tựa nói trên, không thấy chép phần đầu
(phần “Thanh Hóa thi”). Như thế tác phẩm Nhuế Xuyên thi tập A.444 đã công
nhận phần “Quốc Oai thi” là của Nguyễn Khắc Trạch.
Nhưng riêng tôi thì không, tôi cho rằng nửa sau của quyển 1 (tức phần
“Quốc Oai thi” <t24b80 đến t41b138> vẫn là thơ của Nguyễn Phát Khoa. Kết
luận này căn cứ vào: thứ nhất như lời của tác giả trong bài tựa đầu quyển 1 đã
nói: “Nhưng số thơ này để riêng ở đầu tập, vì chúng nguyên chẳng phải là thơ
làm theo đề của ta”. “Đầu tập” trong câu này chắc là đầu của “Nhuế Xuyên tùy
bút thi tập” tức đầu tác phẩm. Thứ hai, ở trong phần này dưới nhiều bài thơ có
các cước chú ở cuối bài thơ kiểu như: “Nam kì nhân hữu bất tri loa giả, cựu
thường vấn dư, dư thư thử dĩ đáp chi” (Người ở Nam Kì không biết loa như thế
nào, trước đây hay hỏi ta, ta viết bài này để trả lời họ) <Phụ đáp vấn loa, t35
b116>; “Nam Kì vô thử thuế cố Thái thú dị nhi mệnh vi đề” (Nam Kì không có
loại thuế này cho nên thái thú thấy lạ mà làm bài này) <Cước mễ thuế,
t40b132>; “Nam vô đê bất tri tác pháp dị nhi mệnh chi” (Trong Nam không có
đê, nên không biết cách làm, thấy lạ nên làm bài này) <Đê tâm gia chử,
11
t41b138>…>. Nguyễn Phát Khoa là bạn thân với Nguyễn Khắc Trạch. Sách
NÔNÔCTN cho biết: “Nguyễn Phát Khoa trước có tên là Nguyễn Đôn Khiêm
người xã Thành Công, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Thi Hương
khoa Đinh Mão, Tự Đức thứ 20 (1967) tại trường Thừa Thiên. Làm đến chức
Án sát”. Theo bài văn “Tứ Quốc Oai phủ nha hạ bản quan trướng tự” (Trướng
trần bày cấp trên ban cho sở quan phủ Quốc Oai chúc mừng quan của bản phủ)
<VHv.214, t126b48>, Phát Khoa sau khi thi đỗ Cử Nhân chức giữ chức đầu tiên
là Án sát tỉnh Thanh Hóa, một thời gian làm Tri huyện huyện Hòa Vinh, phủ
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Sau đó lại cải bổ Thái thú phủ Quốc Oai. Không
những Nguyễn Khắc Trạch duyệt bình, nhuận sắc thơ của Nguyễn Phát Khoa
mà còn làm rất nhiều thơ tặng tiễn, chúc mừng ông, chẳng hạn như chùm thơ
“Tập Đường thập thủ tống song linh tân doãn Nguyễn Phát Khoa chi quan”
<A.515, t43>… Thứ ba, cũng theo bài văn “Tứ Quốc Oai phủ nha hạ bản quan
trướng tự” có những đoạn viết: “Tân thú doanh phủ Nguyễn công lai, nhi phụ
mẫu ngã, thất nguyệt dĩ cập kim hĩ. Mệnh thủy hạ, mạc hữu thức kì tường giả.
Chất chư Ngự sử Nhuế Xuyên Nguyễn đài, đài viết ‘ngô hữu dã, ngô tri chi, quốc
sơ Thành Công tổng trấn quan’… Nhuế Xuyên thường tập Đường thi dĩ tiễn công
khứ…Phục văn công hữu ‘Lịch hoạn thi phổ’, cận lai ngã phủ sơn xuyên, cảnh
vật, nhân tài, phong tục, đương dĩ nhập vịnh.” (Thái thú mới ông Nguyễn lớn lao
thay đã đến, ông là quan phụ mẫu của bọn ta từ tháng 7 đến nay. Khi mới có
lệnh ông đến phủ ta, không có ai biết tí gì về ông cả, bèn đến hỏi Ngự sử Nhuế
Xuyên Nguyễn đài, ông trả lời rằng ‘là bạn của ta, ta quen ông ấy, ông là quan ở
tổng trấn Thành Công từ đầu thời Tự Đức…’. Ông Nhuế Xuyên thường làm thơ
tập Đường để tiễn ông đi…Còn nghe ông có ‘Lịch hoạn thi phổ’ phong tục,
nhân tài, cảnh vật, núi sông của phủ ta gần đây đã được ông vịnh vào trong
thi phổ). Thứ tư, trong phần này có nhiều cước chú có khi dưới câu thơ, có khi
dưới tiêu đề: “nguyên, nhuận, tân” (để nguyên, sửa đổi, làm mới) bằng bút mực
đen cùng màu với chính văn, nên có lẽ đó là lời chú của Khắc Trạch khi nhuận
sắc phần thơ này. Qua đây chúng ta có thể khẳng định rằng q1 (từ bài“Quốc Oai
phủ thành”<b80t25> trở đi) do Nguyễn Phát Khoa làm, nhưng chắc phần này
được Nguyễn Khắc Trạch khi bình duyệt đã sửa đổi nhiều, có những chỗ sửa
chữa nhiều quá, trở thành như thơ của Khắc Trạch.
12
2. Nhuế Xuyên thi tập. Kí hiệu A.444.
Khổ 23 x 32, sách chép tay trên giấy dó dày, giấy còn khá mới. Bìa bằng
màu hồng, giống bìa vở học sinh thời nay. Sau tờ bìa chính có tờ bìa phụ bằng
giấy dó, trên đó viết: “Nhuế Xuyên thi tập - Tốn Trai thi tập hợp đính”. Dòng
này được viết bằng bút mực xanh của thời nay, nên đây là do người sau này mới
viết. Sau tờ này đến tác phẩm Nhuế Xuyên thi tập. Đây là bản hợp đính nên có
hai tác phẩm, tác phẩm Nhuế Xuyên thi tập có kí hiệu A.444 ở nửa đầu văn bản,
nửa sau là Tốn Trai thi tập kí hiệu A.445. Phần gáy quét sơn đỏ, trên đó viết tên
của tác phẩm nhưng do mối mọt ăn nên đã mất một số chữ chỉ còn “Xuyên thi
tập - Tốn Trai thi”. Như vậy đã mất đi chữ “Nhuế” và “tập hợp đính”.
Ở mỗi trang, mép bên ngoài đều ghi Nhuế Xuyên thi tập, phía dưới ghi số
thứ tự tờ. Phần chính văn tổng cộng 246 trang, viết trên hai mặt giấy, mỗi trang
văn bản có 9 dòng, mỗi dòng có khoảng 19 chữ. Dòng đầu tiên tờ 1 phần chính
văn là “Nhuế Xuyên cử nhân Nguyễn Khắc Trạch thi tập”, ở đây chữ “Trạch”
tên tác giả được viết bằng chữ (澤), nhưng ở các bản khác đều viết chữ (宅), cỡ
chữ dòng này bằng chính văn. Từ đầu tác phẩm đến cuối tác phẩm được viết
cùng một loại chữ, chữ chân phương, rõ ràng, dễ đọc. Các cước chú, phụ chú
khá nhiều, nhưng viết không nhất quán, có chỗ viết chữ nhỏ hơn phần chính văn
(ví dụ: d4 t39; d1 t39; d2 t41), có chỗ lại viết chữ to bằng phần chính văn (d7,8
t38; cả trang 49). Tiêu đề các bài thơ viết không đài lên hay án xuống nên rất
khó nhận ra.
Dấu tích đọc duyệt văn bản được thể hiện qua màu mực đỏ hồng, bằng bút
lông, dùng trong các trường hợp như ngắt câu, đánh dấu bên địa danh, nhưng
không thấy sửa chữa, gạch xóa hay thêm bớt. Cả bản đều nhất quán viết kiêng
húy chữ “thời” thành chữ “thìn”.
Văn bản không có bạt tựa gì, tên tác phẩm là “thi tập”, nhưng trong đó chép
lẫn cả thơ, văn, phú và câu đối. Cả bản tổng cộng có 331 bài thơ, 19 bài văn,
hơn 100 cặp câu đối, câu đối chép xen lẫn trong phần văn. Từ trang đầu đến
trang 159 chép thơ, sau trang 159 đến hết chép văn và câu đối.
Mặc dầu không chia quyển nhưng có các phần đặt theo trình tự như sau:
- “Nhuế Xuyên Cử nhân Nguyễn Khắc Trạch thi tập” từ t1 đến t92,
13
- “Hoàng triều ngự chế quan chức thi” từ d4 t92 đến hết t126. Trong phần
này, cuối một số bài thơ, cuối một số tiêu đề có những cước chú như: “Giải
nguyên quan soạn” <d6 t94> gồm ba bài, “Hữu Sơn Lộc tú tài đệ họa” <d2
t108>; hoặc tiêu đề một số bài thơ kiểu như: “Ngự chế Hoài Như Thanh sứ Phan
Huy Vịnh đẳng tác” <b202 t109>, “Sơn Tây tổng đốc quan soạn chẩm thi nhị
thủ” <b202 t109>, “Ngự chế khấp Nhạc Vũ Mục” <b206 t111>, “Sử cục biên tu
Phạm Vũ Khải phụng họa” <b207 t111>, “Trường Xuân phủ doãn Lê Khắc Cẩn
phụng họa” <b208 t112> vv. Như vậy, theo như tên của phần thơ “Hoàng triều
ngự chế quan chức thi” nên trong phần này có thơ của nhiều khác. Tính ra có 17
bài có chú hoặc tiêu đề dạng như vậy.
-“Nhuế Xuyên lịch hoạn thi - Quốc oai thi thảo” từ t126 đến t146, có 57 bài
thơ, toàn thơ làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt. 57 bài thơ phần này tương đồng
với phần “Quốc Oai thi” ở nửa sau q1 của bản VHv.212 nói trên. Như đã chứng
minh, nhận định trong phần tình trạng bản VHv.212, đó là thơ của Nguyễn Phát
Khoa.
- Cuối t146 sau phần thơ “Nhuế Xuyên lịch hoạn thi-Quốc Oai thi thảo” có
dòng cước chú “Thượng chư thi Lê triều Trần tiến sĩ cảm tác” (Trên đây là cảm
tác của Tiến sĩ Trần triều Lê). Nếu theo ý câu chú này, phần “Nhuế Xuyên lịch
hoạn thi - Quốc Oai thi thảo” là cảm tác của Tiến sĩ Trần triều Lê. Nhưng theo
bài tựa ở bản VHv.212, đó là thơ của Nguyễn Phát Khoa, được Nguyễn Khắc
Trạch bình duyệt và nhuận sắc. Vậy có lẽ người sao chép đã viết nhầm chăng?
Quả đúng như lời phỏng đoán, bởi sau dòng chú “Thượng chư thi Lê triều Trần
tiến sĩ cảm tác” có 31 bài thơ. Đến cuối bài thứ 26 trong 31 bài này (t157) lại có
dòng cước dưới một bài thơ: “Hữu chư vịnh Lê triều Trần tiến sĩ cảm tác” (Phần
bài vịnh ở trên là cảm tác của Trần tiến sĩ triều Lê). Như vậy chữ “thượng” trong
“Thượng chư thi Lê triều Trần tiến sĩ cảm tác” ở trang 146 phải đổi là “hạ” mới
ăn khớp với chú ở t157, như thế người sao chép đã viết nhầm. Vậy 26 bài trong
phần này là của Tiến sĩ Trần triều Lê.
- Tiếp đó (t158 và t159), còn có 4 bài thơ, không thấy chú thích gì, nên
cũng chưa biết có phải thơ của Nguyễn Khắc Trạch không?
- Từ trang 160 đến hết chép câu đối lẫn văn, phần văn này chép rất tùy
tiện, nhiều bài không có tiêu đề. Nói chung phần văn và câu đối trong bản này
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét