Thứ Năm, 20 tháng 2, 2014

Quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản theo pháp luật Hôn nhân gia đình hiện hành

Thái Bình Dương lên tới 9,51%, cao hơn tốc độ bình quân 5,61% hàng năm của
mậu dịch thế giới cùng thời gian đó [1, tr. 24].
Các hình thức hợp tác song phương và đa phương về đầu tư, thương mại,
chuyển giao kỹ thuật, xuất khẩu lao động cũng phát triển rất nhanh, đặc biệt là
đối với các nước lớn trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực có cường quốc kinh tế mạnh nhất
thế giới đó là Mỹ, có vị trí ở khu vực Bắc Mỹ, nằm giữa Canada và Mexico,
giáp bắc Thái Bình Dương và bắc Đại Tây Dương, với nguồn vốn lớn, kỹ thuật
hùng hậu, thêm vào đó là nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và thị trường
tiêu thụ rộng lớn, kim ngạch xuất nhập khẩu vào loại cao nhất thế giới. Ở châu
Á, Trung Quốc là một nước có diện tích lớn, nguồn tài nguyên thiên nhiên tương
đối phong phú, nhiều chủng loại, hơn nữa có nguồn lao động dồi dào. Ngoài ra
cũng phải kể đến các nước ASEAN và các nước Đông Dương: có nguồn tài
nguyên và lao động tương đối phong phú, lại thiếu vốn và kỹ thuật, là điểm đến
của các nhà đầu tư trên thế giới. “ASEAN cũng là đối tượng thu hút nhiều vốn
đầu tư của thế giới, vào cuối những năm 1980 bình quân hàng năm tranh thủ
được 13,5 tỷ USD, so với 4,6 tỷ USD vào đầu những năm 1980” [2, tr. 7].
Một nhân tố góp phần không nhỏ vào sự phát triển của ASEAN là sự hợp
tác giữa các nước thành viên và các nước ở bên ngoài, chủ yếu là các nước được
gọi là “đối thoại” bao gồm Mỹ, Canada, Nhật, Australia, Niu Zealand, Liên
minh châu Âu, Hàn Quốc. Các quốc gia trong khu vực có những lợi thế so sánh
khác nhau, có thể bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau cùng tồn tại và phát triển. Bên cạnh
các yếu tố sản xuất và kết cấu ngành nghề khác nhau, thì sự ổn định tương đối
về chính trị trong mỗi quốc gia là hết sức quan trọng trong việc tạo ra tiền đề
xúc tiến hợp tác kinh tế khu vực, “các nước Đông Nam Á có trách nhiệm chính
trong việc tăng cường ổn định kinh tế và xã hội của khu vực” [3, tr. 23]. Các
quốc gia sẽ phải tăng cường hợp tác kinh tế với quan điểm hướng ngoại, làm cho
sự hợp tác đó đóng góp vào việc thúc đẩy tự do hoá thương mại toàn cầu.
Như vậy, trước tình hình thực tế này và từ đòi hỏi khách quan của tình
hình thế giới, khu vực và cũng là để giải quyết những vấn đề toàn cầu, Diễn đàn
hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương ra đời là kết quả tất yếu của sự hội tụ
các yếu tố trên, đáp ứng yêu cầu liên kết chặt chẽ hơn nữa của các nền kinh tế
trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
1.1.2. Sự ra đời của APEC
Trong bối cảnh đó và trong sự phù hợp lợi ích giữa các quốc gia, 12 quốc
gia khu vực châu Á - Thái Bình Dương là Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Australia,
Hàn Quốc, Thái Lan, Brunây, Indonesia, Malaysia, Singapore, Philippin và Niu
Zealand đã họp tại Caberra (Australia) theo sáng kiến của Thủ tướng Australia
lúc đó là Bobhawke để thành lập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương vào tháng 11 năm 1989.
Để củng cố thêm tổ chức và cũng để mở rộng thêm các thành viên mới,
tháng 11 năm 1991, APEC kết nạp thêm Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan.
Tháng 11 năm 1994 kết nạp thêm Chilê, Mêxico, Papua Niughinê. Tháng 11
năm 1997 Hội nghị Thượng đỉnh thường niên APEC tại Vancuvơ - Canada đã
quyết định kết nạp Việt Nam, Nga, Pêru là thành viên chính thức của APEC vào
tháng 11 năm 1998. Tại Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ 10 tổ chức tại
Kualalampua (Malaysia) ngày 14 tháng 11 năm 1998 Việt Nam chính thức trở
thành thành viên APEC.
Với tổng số 21 thành viên, APEC hiện có tổng dân số 2,6 tỷ người (chiếm
khoảng 43% dân số thế giới) với tổng GDP là 19,2 ngàn tỷ USD (khoảng 60%
tổng GDP toàn cầu). Tổng giá trị giao dịch thương mại của APEC là trên 5,5
ngàn tỷ USD, chiếm khoảng 47% tổng thương mại toàn cầu. Hiện nay APEC đã
quyết định ngừng việc kết nạp thành viên mới để chấn chỉnh tổ chức [4, tr. 23].
1.2. Các giai đoạn phát triển của APEC
Từ khi thành lập (1989) đến nay, APEC luôn luôn củng cố và phát triển
về nội dung hoạt động của mình, có thể chia làm các giai đoạn sau:
1.2.1. Giai đoạn đầu (1989 - 1993)
APEC tập trung xây dựng khuôn khổ ban đầu cho hợp tác kinh tế, xác
định dần các lĩnh vực cần đưa ra hợp tác ở cấp khu vực và thành lập các uỷ ban,
nhóm chuyên gia, nhóm công tác. Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ nhất ở
Canberra 1989 mới chỉ đưa ra 2 lĩnh vực hoạt động, Hội nghị Bộ trưởng lần thứ
hai ở Singapore 1990 đã đưa ra 7 lĩnh vực hợp tác, Hội nghị Bộ trưởng APEC
lần thứ ba 1991 tại Seoul (Hàn Quốc) đã bổ sung thêm 3 lĩnh vực hoạt động. Tại
hội nghị này, tự do hoá mậu dịch và thương mại là một nội dung quan trọng, đề
xuất việc tham khảo nguyên tắc của GATT để thúc đẩy tự do hoá, đồng thời
cũng nhấn mạnh tính quan trọng của việc mở cửa phát triển kinh tế, hợp tác
khoa học - kỹ thuật.
1.2.2. Giai đoạn từ 1993 - 1998
Chú trọng vào tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại, đầu tư với việc xây
dựng các văn kiện nền tảng. Tại hội nghị không chính thức các nhà lãnh đạo
kinh tế APEC (AELM) lần đầu tiên tại Xiatơn (Mỹ) tháng 11/1993 đã đề ra viễn
cảnh: “Tinh thần cộng đồng tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương” làm thay
đổi căn bản cơ cấu tổ chức của APEC, hình thành cơ cấu quyết sách ba tầng:
Hội nghị quan chức cao cấp, Hội nghị Bộ trưởng, Hội nghị cấp cao. Những
quyết định quan trọng phải được Hội nghị cấp cao quyết định.
Hội nghị cấp cao lần thứ 2 ở Bogor (Indonesia) tháng 11 năm 1994 đã có
cống hiến quan trọng cho việc thúc đẩy APEC phát triển theo chiều sâu, cụ thể
hoá kế hoạch đưa ra tại hội nghị Xiatơn. “Tuyên bố Bogor” đưa ra thời gian biểu
thực hiện tự do hoá mậu dịch và đầu tư khu vực châu á - Thái Bình Dương đối
với các thành viên phát triển không muộn hơn năm 2010, các thành viên đang
phát triển không muộn hơn năm 2020.
Hội nghị cấp cao lần thứ 3 tại Osaka - Nhật Bản năm 1995 đã thông qua
“chương trình hành động Osaka” với ba nội dung chính: tự do hoá thượng mại
và đầu tư, tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, hợp tác kinh tế - kỹ thuật.
Hội nghị cấp cao lần thứ 4 tại Manila - Philippin tháng 11 năm 1996 với
chủ đề chính: “Từ tầm nhìn đến hành động”đã thông qua kế hoạch hành động
quốc gia (IAP) và kế hoạch hành động tập thể (CAP).
Hội nghị cấp cao lần thứ 5 tại Vacuvơ (Canada) tháng 11 năm 1997 xác
định chủ đề chính: “Kết nối cộng đồng APEC” xây dựng “Tầm nhìn thế kỷ XXI”
khẳng định những mối liên kết hiện nay cũng như trong tương lai giữa các thành
viên và cam kết hợp tác trong ba lĩnh vực trụ cột: tự do hoá; thuận lợi hoá; hợp
tác kinh tế - kỹ thuật.
Hội nghị cấp cao lần thứ 6 tại Kualalumpua (Malaysia) tháng 11 năm
1998 với chủ đề chính: “Tăng cường nền tảng cho phát triển”. Các nhà lãnh đạo
cùng bàn thảo về các biện pháp ngắn và dài hạn để sớm phục hồi và phát triển
các nền kinh tế trong khu vực.
1.2.3. Giai đoạn từ 1998 đến nay
Các hoạt động của APEC chuyển hướng sang các hoạt động thuận lợi hoá
thương mại và hợp tác kinh tế - kỹ thuật. Bên cạnh đó, cũng chú trọng tới một số
nội dung khác tác động sâu sắc tới môi trường kinh tế, an ninh trong khu vực,
tăng cường các hoạt động cải thiện hình ảnh của Diễn đàn trên trường quốc tế
cũng như tăng cường sự hiểu biết và hỗ trợ của các tầng lớp xã hội.
Hội nghị cấp cao lần thứ 7 tại Ocklân (Niu Zealand) tháng 9 năm 1999
với chủ đề chính: “Thách thức Ocklân” tán thành bắt đầu vòng đàm phán mới
của WTO và thông qua các nguyên tắc chính sách cạnh tranh, chuẩn bị xây dựng
các tiêu chuẩn về Ngân hàng.
Hội nghị cấp cao lần thứ 8 tại Bandaxeri Bêgaoan (Brunây) tháng 11 năm
2000 với chủ đề chính: “Mang lại lợi ích cho cộng đồng” nhấn mạnh ba trọng
tâm là phát triển nguồn nhân lực, doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghệ thông tin.
Hội nghị cấp cao lần thứ 9 tại Thượng Hải (Trung Quốc) tháng 10 năm
2001 xác định chủ đề chính: “`Đối phó với những thách thức mới trong thế kỷ
mới” thông qua “Thoả thuận Thượng Hải”tập trung vào việc mở rộng viễn cảnh
APEC. Đưa ra tuyên bố chống khủng bố đầu tiên của các nhà lãnh đạo APEC.
Hội nghị cấp cao lần thứ 10 tại Lôtcabôt (Mêxico) tháng 10 năm 2002 với
chủ đề chính: “Thực hiện tầm nhìn APEC về thương mại, đầu tư mở và tự do”.
Tuyên bố chống khủng bố thứ hai được đưa ra cùng với việc thông qua sáng
kiến về an ninh thương mại trong khu vực.
Hội nghị cấp cao lần thứ 11 tại Băng Kốc (Thái Lan) tháng 10 năm 2003
xác định chủ đề chính: “Thế giới của những khác biệt” “Đối tác vì tương lai”
thông qua tiêu chuẩn minh bạch hoá trong tám lĩnh vực cụ thể gồm: dịch vụ, đầu
tư, luật và chính sách cạnh tranh, tiêu chuẩn và hợp chuẩn, sở hữu trí tuệ, thủ tục
hải quan, tiếp cận thị trường, đi lại của doanh nhân.
Hội nghị cấp cao lần thứ 12 tại Xantiago (Chilê) tháng 11/2004 chủ đề
chính: “Một cộng đồng - tương lai của chúng ta” khẳng định quyết tâm trong
việc thúc đẩy sự thịnh vượng và tăng trưởng bền vững của các nền kinh tế thành
viên.
Hội nghị cấp cao lần thứ 13 tại Busan (Hàn Quốc) năm 2005 xác định chủ
đề chính: “Hướng tới một cộng đồng: đối mặt với thách thức, tạo ra sự thay
đổi”.
Hội nghị cấp cao lần thứ 14 tại Hà Nội (Việt Nam) năm 2006 với chủ đề:
“Hướng tới cộng đồng APEC năng động vì ổn định và phát triển” thể hiện mục
tiêu trước mắt của APEC là “Năng động, ổn định và phát triển” vừa bao hàm
tầm nhìn của APEC trong tương lai là “Hướng tới một cộng đồng”. Tại hội nghị
này, các ưu tiên đã được APEC 2006 thông qua: Tăng cường và thúc đẩy hợp
tác thương mại, đầu tư, phát triển bền vững; an ninh con người; phòng chống
dịch cúm gia cầm; phát triển nguồn nhân lực; nâng cao năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ; cải cách APEC; chống tham nhũng; liên kết giữa
các thành viên APEC thông qua du lịch và văn hoá. Có thể nói, các ưu tiên hợp
tác của APEC thể hiện trên nhiều lĩnh vực theo tôn chỉ mục đích của APEC,
thúc đẩy thịnh vượng và phát triển trong khu vực vì lợi ích và an ninh của người
dân và doanh nghiệp.
Chủ trì năm APEC 2006 và tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh APEC lần thứ
14 là vinh dự của Việt Nam, góp phần khẳng định vai trò của Việt Nam trong
APEC, trên trường quốc tế.
Hội nghị Thượng đỉnh APEC lần thứ 15 sẽ được tổ chức tại Australia.
Như vậy, qua hơn một thập kỷ tồn tại và phát triển, từ một Diễn đàn tư
vấn kinh tế với cơ chế hoạt động lỏng lẻo, APEC đã từng bước lớn mạnh và đến
nay đã có 21 thành viên. Nội dung hoạt động trong từng năm APEC đều được cụ
thể hoá và được thực hiện, trong đó có tính đến sự khác biệt về trình độ giữa các
nước thành viên. APEC đã góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - thương mại
ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và trên toàn thế giới.
2. Cơ cấu tổ chức, mục tiêu, nguyên tắc hoạt động của APEC
2.1. Cơ cấu tổ chức của APEC
Từ khi thành lập đến nay, tuy hình thức là một Diễn đàn hợp tác kinh tế
khu vực mở, nhưng qua thời gian hoạt động, cơ cấu tổ chức của APEC cũng
được bổ sung, hoàn thiện dần và hoạt động khá chặt chẽ theo mô hình dưới đây:
2.1.1. Cấp chính sách
- Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế APEC:
Là cơ quan có quyết định cao nhất của APEC, nơi định ra các định hướng
chiến lược và viễn cảnh dài hạn cho APEC. Hội nghị thường được tổ chức vào
tháng 11 hàng năm để phê duyệt các kế hoạch, kiến nghị do Hội nghị Bộ trưởng
đệ trình và vạch ra phương hướng, nhiệm vụ cho năm kế tiếp. Chủ tịch Hội nghị
lãnh đạo do các thành viên thay phiên nhau đảm nhiệm hàng năm. Kết quả đạt
được của Hội nghị được thể hiện qua Tuyên bố chung của các nhà lãnh đạo
APEC.
- Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Thương mại:
Được tổ chức định kỳ hàng năm, trước Hội nghị các nhà lãnh đạo kinh tế
APEC.
- Hội nghị các quan chức cao cấp:
Thường được triệu tập thường kỳ ba lần trong một năm, trước khi diễn ra
Hội nghị Hộ trưởng Ngoại giao - Thương mại, nhiệm vụ chính là triển khai
quyết định của Hội nghị Bộ trưởng, đệ trình các khuyến nghị chương trình hợp
tác lên Hội nghị Bộ trưởng xem xét.
- Hội đồng tư vấn doanh nghiệp APEC (ABAC):
Nhiệm vụ là tăng cường sự hợp tác của APEC với khu vực doanh nghiệp
và thúc đẩy sự tham gia của giới doanh nghiệp vào các hoạt động hợp tác của
APEC. ABAC bắt đầu hoạt động sau Hội nghị Bộ trưởng Osaka năm 1995. Mỗi
nền kinh tế cử một đến ba đại diện, trong đó thường có một đại diện cho SMES
(doanh nghiệp vừa và nhỏ).
2.1.2. Cấp chuyên viên
- Uỷ ban thương mại và đầu tư (CTI)
- Uỷ ban kinh tế (EC)
- Uỷ ban quản lý và ngân sách (BMC)
- Uỷ ban điều hành SOM về hợp tác kinh tế và kỹ thuật (ESC)
Để triển khai các nhiệm vụ và mục tiêu hợp tác kinh tế- thương mại trong
APEC, do các nhà lãnh đạo kinh tế giao phó theo từng giai đoạn, hoặc từng năm
công tác, APEC thành lập các tiểu ban và nhóm công tác trực thuộc Uỷ ban
thương mại và đầu tư và Uỷ ban kinh tế (EC) dưới sự chỉ đạo chung của SOM.
APEC hiện có 11 tiểu ban trực thuộc CTI là: Tiếp cận thị trường bao gồm
lĩnh vực thuế và phi thuế; dịch vụ; đầu tư; sở hữu trí tuệ; tiêu chuẩn và hợp
chuẩn; thủ tục hải quan; chính sách cạnh tranh và cải cách cơ chế; đi lại của
doanh nhân; giải quyết tranh chấp; nhóm xây dựng năng lực WTO; mua sắm
Chính phủ và một số nhóm công tác trực thuộc SOM như: Nhóm chuyên gia
về kỹ thuật nông nghiệp; năng lượng; nghề cá; phát triển nguồn nhân lực; khoa
học công nghệ công nghiệp; du lịch; xúc tiến thương mại; giao thông vận tải;
doanh nghiệp vừa và nhỏ và bảo tồn tài nguyên biển v.v…
Ngoài ra còn một số các mạng lưới, tiến trình, tổ hợp, diễn đàn khác trong
APEC bao gồm: Mạng lưới đầu mối liên hệ về giới; Mạng lưới đầu mối liên hệ
về văn hoá; Tiến trình Bộ trưởng tài chính; Tổ hợp tác trung tâm nghiên cứu
APEC; Diễn đàn về đổi mới khoa học đời sống; Hệ thống thực phẩm APEC.
2.1.3. Ban thư ký
Làm việc dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hội nghị quan chức cấp cao và có
quan hệ thông tin liên lạc trực tiếp, thường xuyên với các nền kinh tế thành viên,
các uỷ ban, các nhóm công tác và nhóm đặc trách của APEC.
Nhiệm vụ mang tính chất hành chính, phục vụ các hội nghị của APEC,
theo dõi việc triển khai các dự án.
2.1.4. Cơ chế hoạt động của APEC
APEC hoạt động như một diễn đàn hợp tác kinh tế và thương mại đa
phương. Thành công của diễn đàn đạt được thông qua việc tăng cường đối thoại
chính sách và tôn trọng ý kiến của các thành viên. Các quyết định đều dựa trên
cơ sở cùng có lợi, đồng thuận, tự nguyện và phù hợp với các quy định của
GATT/WTO. Đây là diễn đàn mà các cam kết cắt giảm các rào cản thương mại
và tăng cường đầu tư mà không đòi hỏi sự ràng buộc pháp lý về mặt thực thi đối
với các thành viên. Các nền kinh tế thành viên thực hiện IAP, CAP nhằm mở
rộng thị trường và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
APEC phải tiếp tục phát huy sức mạnh thể chế và lợi thế so sánh của
mình trong việc thúc đẩy xây dựng chính sách theo hướng cởi mở, minh bạch và
cải tiến công tác quản lý, hài hoà lợi ích các thành viên, phối hợp giữa ba mặt
hành động: hành động đơn phương có phối hợp hành động tập thể và hành động
đa phương.
2.2. Mục tiêu hoạt động của APEC
Năm 1989, các thành viên sáng lập APEC xây dựng 3 mục tiêu:
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
- Phát triển và củng cố hệ thống thương mại đa phương.
- Tăng cường sự phụ thuộc lẫn nhau và thịnh vượng của các nền kinh tế
thành viên.
Tầm nhìn APEC được xác định rõ hơn vào năm 1994, khi các nhà lãnh
đạo APEC cam kết thực hiện “Các mục tiêu Bogor” về thương mại mở và tự do
trong khu vực. Mục tiêu dài hạn được nêu rõ trong tuyên bố Bogor 1994
“Thương mại và đầu tư tự do và thông thoáng trong khu vực châu Á - Thái Bình
Dương vào năm 2010 đối với thành viên APEC phát triển và 2020 đối với thành
viên APEC đang phát triển” được thực hiện dựa trên 3 trụ cột: Tự do hoá thương
mại và đầu tư, thuận lợi hoá kinh doanh, hợp tác kinh tế và kỹ thuật.
* Tự do hoá thương mại và đầu tư
Tập trung vào việc mở cửa thị trường, cắt giảm và dần dần dẫn đến loại
bỏ
hoàn toàn các rào cản thuế và phi thuế đối với thương mại, đầu tư. Các
nền kinh tế thành viên cùng nhau tiến hành thực hiện các IAP, theo đó các quốc
gia sẽ đưa ra các cam kết một cách tự nguyện về tự do hoá thuế quan, phi thuế
quan, dịch vụ và đầu tư phù hợp với nguyên tắc của WTO, giúp các nền kinh tế
thành viên củng cố nền kinh tế của mình, thông qua việc chia sẻ ý kiến và mang
lại nhiều lợi ích cho hoạt động hợp tác kinh tế trong APEC.
* Thuận lợi hoá kinh doanh
Một trong những mục tiêu chính của APEC chính là việc tạo thuận lợi tối
đa cho sự phát triển thương mại của các nền kinh tế thành viên. Kể từ khi thành
lập APEC luôn nỗ lực, tạo thuận lợi cho thương mại bằng cách đặt ra các mục
tiêu cụ thể, nhất là có chương trình hỗ trợ xây dựng năng lực cho các nền kinh tế
đang phát triển. Thuận lợi hoá kinh doanh tập trung vào việc giảm chi phí giao
dịch trong kinh doanh, tăng cường trao đổi thông tin và tự do thương mại, làm
cho thị trường hoạt động có hiệu quả hơn.
Trong bối cảnh thương mại thế giới ngày càng gia tăng, thuế quan giảm
dần và công nghệ phát triển, thuận lợi hoá thương mại càng trở lên quan trọng,
đồng thời lợi ích tiềm tàng của nó cũng không ngừng tăng theo. APEC đã xây
dựng bộ nguyên tắc thuận lợi hóa thương mại và kế hoạch hành động thuận lợi
hoá thương mại (TFAP), đưa ra các biện pháp cụ thể giảm chi phí giao dịch và
đơn giản hoá các quy định hành chính và thủ tục theo một thời gian biểu nhất
định, bảo đảm việc thực hiện của các thành viên.
* Hợp tác kinh tế và kỹ thuật (ECOTECH)
Chương trình ECOTECH được thực hiện dưới dạng các dự án, chương
trình hợp tác trên các lĩnh vực cụ thể, bao gồm đào tạo và các hoạt động hợp tác
khác, nhằm hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực của các nền
kinh tế thành viên, tạo điều kiện để các thành viên tận dụng thương mại toàn cầu
và nền kinh tế mới, đảm bảo cân bằng và phát triển bền vững.
2.3. Nguyên tắc hoạt động của APEC
Sau hơn một thập kỷ tồn tại và phát triển, dựa trên những nguyên tắc cơ
bản của Luật Quốc tế, các nước thành viên APEC đã từng bước xây dựng và
cùng khẳng định những nguyên tắc, tư tưởng cơ bản làm cơ sở cho quan hệ
trong nội bộ các nước thành viên và giữa các nước này với các nước khác trong
và ngoài khu vực, bao gồm:
* Các nguyên tắc chủ đạo
Các hoạt động trong khuôn khổ APEC được điều tiết bởi những nguyên
tắc chung, áp dụng cho tất cả các thành viên, Tuyên bố Bogor đề ra bốn nguyên
tắc chủ đạo:
- Bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau.
- Hỗ trợ và hai bên cùng có lợi.
- Quan hệ đối tác chân thành và theo tinh thần xây dựng.
- Mọi quyết định đưa ra trên cơ sở nhất trí chung.
* Các nguyên tắc cơ bản
Các nguyên tắc chủ đạo trên đã được chi tiết hóa thành 9 nguyên tắc cơ
bản trong chương trình tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại và đầu tư:
- Nguyên tắc toàn diện (Comprehensiveness): Thực hiện tự do hóa và
thuận lợi hóa toàn diện ở tất cả các lĩnh vực, nhằm tháo gỡ những cản trở trong
quá trình thực hiện mục tiêu lâu dài của APEC nêu trong tuyên bố Bogor năm
1994.
- Nguyên tắc phù hợp với GATT/WTO (GATT/WTO Consistency):
Là một Diễn đàn kinh tế mở, các biện pháp và chương trình hành động áp
dụng thực hiện mục tiêu tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại và đầu tư phải
phù hợp với quy tắc, luật lệ, thoả thuận trong khuôn khổ WTO.
- Nguyên tắc đảm bảo mối tương đồng (Comparability):
Các nền kinh tế thành viên phải đảm bảo tính tương đồng trong việc thực
hiện tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại và đầu tư, trên cơ sở xem xét thích
đáng mức độ tự do hóa và thuận lợi hoá đã đạt được ở mỗi thành viên trong tiến trình
này.
- Nguyên tắc không phân biệt đối xử (Non - Discrimination):
Các thành viên sẽ áp dụng hoặc cố gắng áp dụng nguyên tắc không phân
biệt đối xử giữa các thành viên và các quốc gia không phải là thành viên. Kết
quả thực hiện tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại và đầu tư không những áp
dụng cho tất cả các nước thành viên mà còn áp dụng cho các quốc gia không
phải là thành viên.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét