5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn bước đầu khái quát một số đặc điểm cơ bản của quá
trình du nhập, phát triển của Phật giáo ở Nhật Bản.
- Góp phần đánh giá vai trò của Phật giáo vào kho tàng văn hóa tinh
thần của Nhật Bản.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Đề tài góp phần gợi mở một số vấn đề giúp các nhà quản lý xã hội
suy nghĩ về việc khuyến khích những đóng góp của Phật giáo vào nền văn
hóa dân tộc và vận dụng nó trong điều kiện xã hội Việt Nam.
- Kết quả của luận văn có thể sử dụng vào quá trình nghiên cứu và
giảng dạy môn khoa học về tôn giáo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương 6 tiết.
5
Chương 1
QUÁ TRÌNH DU NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO
Ở NHẬT BẢN
1.1. ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI NHẬT BẢN
Nhật Bản là quần đảo gồm hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ có diện tích
vào khoảng 322.000km
2
, tương đương với tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc
hay gần bằng diện tích lãnh thổ Việt Nam (329.000km
2
). Phần lớn các
đảo có diện tích không lớn và chỉ có 4 đảo lớn là: Hokkaido, Honshu,
Shikoku, Kyushu.
Quần đảo Nhật Bản nằm ở Tây Bắc lòng chảo Thái Bình Dương với
chiều dài tổng cộng 4.000km. Phần lớn lãnh thổ Nhật Bản là núi (chiếm 70%
diện tích đất đai) với nhiều ngọn núi cao. Trong số đó dãy Alpơ có nhiều
núi cao trên 3.000m, ngọn Fuji (Phú Sĩ) cao 3.776m. Điểm đặc biệt là, Nhật
Bản có rất nhiều núi lửa hoạt động, hàng năm gây ra nhiều tai họa cho con
người và xã hội. Với điều kiện núi cao, bờ biển gập ghềnh với những vách
đá thẳng đứng đã tạo cho Nhật Bản một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp.
Về mặt hình dạng của lãnh thổ, trông xa có người bảo có hình trăng
lưỡi liềm, lại có người bảo có hình con tằm, nhiều người tin rằng, Nhật Bản
muốn tồn tại phải dựa vào Trung Quốc vì hình dạng Trung Quốc giống lá
dâu. Tuy nhiên, đó chỉ là phỏng đoán nặng tính tư liệu bởi thực tế lịch sử
đã chứng minh rằng, sức tự cường của người Nhật không xô đẩy họ vào
con đường lệ thuộc, ngược lại, Nhật Bản là nước duy nhất ở Đông Bắc Á
không rơi vào họa thực dân thời kỳ thực dân hóa. Về phương diện văn hóa,
mặc dù Nhật Bản tiếp nhận nhiều giá trị văn hóa ngoại lai song họ vẫn là
quốc gia có bản sắc dân tộc độc đáo.
6
Về phương diện nhân chủng học, người Nhật Bản hiện nay là kết quả
của sự cộng hợp nhiều dòng máu của nhiều tộc người khác nhau. Theo kết
quả của các nhà nhân chủng học và khảo cổ học, đất nước Nhật Bản có vết
chân người là vào cuối thời đại đồ đá mới (cách đây khoảng 3.000 năm).
Xét về mặt địa hình nhiều người đã phát hiện thấy sự liên kết chặt chẽ giữa
lục địa Trung Hoa và quần đảo Nhật Bản. Từ đó có suy luận rằng, gốc gác
người Nhật có quan hệ với các tộc người ở đại lục. Theo sách Lịch sử Phật
giáo thế giới (tập 1, Nxb Hà Nội, 1995), cho rằng xuất xứ người Nhật từ ba
hệ lớn:
- Tộc người Hà Di cũ: gốc da trắng ở châu Âu, vượt Xibêri đến
Nhật Bản.
- Tộc người Thông Cổ Tư vốn sống ở Tây Á trong đó có tộc Thiên
Tôn lớn nhất. Tộc người này lấy đất Đại hòa làm căn cứ nên còn gọi là dân
tộc Đại hòa. Đây là nòng cốt của dân tộc Nhật Bản và là người Nhật Bản gốc.
- Một số tộc người thiểu số khác.
Những điều kiện tự nhiên khá đa dạng, khí hậu ôn đới, cây cối tốt
tươi, rậm rạp đã có những ảnh hưởng đến tính cách, tâm lý người Nhật,
khiến cho họ có lòng dũng cảm, có tính tiến thủ mà biểu tượng được ví như
núi Fuji. Ngoài ra người Nhật cũng khá cởi mở, nặng tính thực dụng với
một bản lĩnh thép được hun đúc qua quá trình phát triển quốc gia. Đánh giá
về vấn đề này EDWIN.O.REISCMAUR trong cuốn: Nhật Bản quá khứ và
hiện tại cho rằng:
Ý thức về tinh thần liên kết trong thị tộc và niềm tin vào
tầm quan trọng của các quyền lợi và uy quyền cha truyền con
nối, chắc chắn phải là khá mạnh trong dân tộc này, vì những sức
mạnh này luôn chiếm ưu thế trong suốt lịch sử của Nhật Bản và
vẫn còn rất sống động trong nước Nhật hiện đại. Có lẽ hình ảnh
7
người chiến sĩ quý tộc, người đàn ông kỵ mã, lúc bấy giờ đã có
một vị trí quan trọng trong xã hội Nhật, bởi vì các hình ảnh mờ
ảo này của Nhật Bản thời sơ khai đã vượt qua được trận lũ của
nền văn minh vay mượn của Trung Hoa để sau này trỗi lên như
cột xương sống của Nhật Bản thời phong kiến [26, tr. 16].
Về phương diện tín ngưỡng, người Nhật cổ đại sùng kính các vị
thần tự nhiên. Từ sùng bái tự nhiên dẫn đến sùng bái tổ tiên. Theo truyền
thuyết, số lượng thần tự nhiên của người Nhật có đến tám mươi vạn vị.
Ngoài ra, nhiều hiền tướng, hào kiệt cũng được suy tôn, thiêng hóa và trở
thành các vị thần. Trong số các vị thần, Vũ Thiên Hoàng được tôn kính
nhất, Tenno (Thiên Hoàng) vì vậy là đại diện cho dòng dõi tôn quý, trở
thành lãnh tụ cả về tôn giáo và chính trị.
Những thần linh được người Nhật tôn kính thường được gọi là Kami.
Tín ngưỡng thờ Kami hay Shinto (Thần đạo) trở thành tín ngưỡng bản địa có
lịch sử tồn tại xuyên suốt lịch sử Nhật Bản, chi phối mạnh mẽ các hình thức
tín ngưỡng khác. Vì lẽ ấy, về sau, khi Phật giáo được du nhập, ta thấy lúc
đầu là sự phản ứng, sau nữa là sự kết hợp và tùy tương quan lực lượng cụ
thể, có thể có lúc Phật giáo có ưu thế song nhìn chung, Shinto vẫn đóng vai
trò trụ cột. Nguyên nhân của tình hình này chúng tôi sẽ trình bày ở phần sau.
Về phương diện tổ chức xã hội ta thấy, mặc dù hai cuốn sách Kojiki
(Cổ sự ký) và Nihongi (Nhật Bản thư ký) mang nhiều tính truyền thuyết và
thần thoại nhưng là những tài liệu quan trọng để nghiên cứu xã hội Nhật
Bản cổ đại. Theo các cuốn sách trên (sách được viết từ thế kỷ thứ VIII)
Nhật Bản đã bắt đầu tiếp nhận ảnh hưởng của các tư tưởng ngoại lai
(Khổng giáo, Phật giáo) song những ảnh hưởng đó cũng không làm lu mờ
tính dân tộc và tín ngưỡng truyền thống. Qua các truyền thuyết và những
câu chuyện dân gian, có thể hình dung xã hội Nhật Bản tồn tại trên những
nguyên tắc của một nền quân chủ. Học thuyết Shinto (con đường của thần
8
thánh) không mạnh và làm say lòng người như một tôn giáo thực thụ nhưng
cũng thể hiện rõ ý thức dân tộc của người Nhật. Trong tín ngưỡng Shinto,
những ước nguyện về một cuộc sống tốt đẹp được pha quyện với lòng yêu
nước bởi người Nhật nghĩ rằng, đất nước của họ là của thần thánh. Ai được
thần thánh tin cẩn sẽ được giao quyền cai trị đất nước. Vì lẽ đó, trong đời
sống, đạo Shinto chỉ đạo ý thức cộng đồng. Theo đó, cá nhân chỉ tồn tại
được khi là thành viên của gia đình. Một gia đình chỉ tồn tại được khi là
thành viên của quốc gia. Hiện tại phải hy sinh cho truyền thống và những
khát vọng tương lai. Điều này giống ở Việt Nam với đạo Tổ, với việc thờ
vua Hùng, các Thiên tử, thành hoàng và dòng họ.
Thông qua các chuyện kể ta cũng thấy rằng, quyền lực xã hội tập
trung ở các Tenno mặc dù quyền lực đó không phải lúc nào cũng được thực
hiện suôn sẻ. Chính quyền Trung ương của Tenno có quyền lực cai quản
các tộc người khác, trong đó có những tộc người mạnh. Những tộc người
đó mặc dù thần phục Tenno nhưng vẫn có quyền lực độc lập, vẫn có khả
năng kiểm soát đất đai và cư dân của mình. Tenno thường đại diện cho một
tộc người lớn mạnh nhất và được coi là sứ giả, đại diện cho thần dân trong
mối quan hệ với thần thánh. Quyền lực đó, vì vậy mang tính tôn giáo nhiều
hơn là tính chính trị.
Các đại thần, thường là người đứng đầu các dòng họ quý tộc
Nakutomi và Imibe. Họ là các chúa đất có quyền lực, quyền lực ấy được
duy trì theo kiểu cha truyền con nối về mặt tôn giáo. Thường thì những
người đứng đầu cứ mỗi năm hai lần, làm chủ lễ đọc kinh cầu nguyện trong
các dịp lễ tẩy rửa, cầu xin thần linh trút bỏ cho dân lành ô uế và tội ác.
Tùy theo tương quan lực lượng giữa các dòng họ mà qui định dòng
họ nào được đảm nhiệm chức năng gì. Vì vậy trong xã hội Nhật Bản cổ,
cuộc tranh giành giữa các dòng họ cũng hay xảy ra. Việc chọn người đứng
9
đầu tộc người có một số tiêu chí nhất định, hoặc họ là người giàu có, hoặc
có khả năng sản xuất những đồ quý hiếm hay có tay nghề cao trong một số
ngành thủ công mỹ nghệ.
Cuối cùng, có thể nói, trong xã hội Nhật Bản cổ đại, các tầng lớp
quý tộc và chúa đất ở trung ương và địa phương với vây cánh của họ đã chi
phối quyền lực của triều đình. Họ có thể buộc triều đình có hành động theo
ý muốn của họ kể cả việc bành trướng lãnh thổ. Họ xây dựng các vây cánh
và có thể lôi kéo các thủ lĩnh địa phương đi theo mình. Chính sách của họ
là tập hợp những người thợ giỏi, cho họ quyền lợi thỏa đáng để lôi kéo họ.
Trong bối cảnh lịch sử như vậy, Phật giáo được du nhập. Lúc đầu
nó được đưa vào Nhật Bản thông qua vai trò của những người Triều Tiên,
Trung Hoa vốn là những người buôn bán hoặc như các tù binh. Sau đó, nhờ
sự nâng đỡ của chính quyền, Phật giáo chính thức được thừa nhận và phát
triển khá nhanh.
1.2. QUÁ TRÌNH DU NHẬP PHẬT GIÁO Ở NHẬT BẢN
1.2.1. Một số quan điểm khác nhau về sự du nhập của Phật giáo
vào Nhật Bản
Cho đến hiện nay cuộc tranh luận về những động cơ dẫn đến sự du
nhập, bám rễ của Phật giáo vào Nhật Bản vẫn chưa đi đến những thống
nhất cần thiết. Có thể thấy có hai loại quan điểm chính: Loại thứ nhất cho
rằng, sự du nhập Phật giáo vào Nhật Bản là do những động cơ từ phía
Trung Hoa hay đó chỉ là sự bành trướng về tư tưởng, văn hóa của Trung
Hoa; loại thứ hai cho rằng, đó là sự tiếp nhận diễn ra trên cơ sở nhu cầu nội
tại của người Nhật Bản hay người Nhật đã chủ động tiếp nhận Phật giáo.
Theo ý kiến của chúng tôi, trong sự phát triển của văn hóa Nhật Bản nói
riêng và của bất kỳ nền văn hóa nào nói chung không bao giờ là một quá
trình thuần nhất, bởi các dân tộc liên tục có những cuộc tiếp xúc văn hóa dù
10
tự giác hay tự phát. Trường hợp Nhật Bản trước khi tiếp xúc với Triều
Tiên, Trung Hoa có những đặc biệt bởi đó là xứ sở của các hòn đảo sống
gần như biệt lập so với thế giới bên ngoài, nhất là khi kỹ nghệ hàng hải
chưa phát triển. Chính sự cô độc trong những mối giao cảm văn hóa mà so
với Triều Tiên, Trung Hoa, trình độ văn minh của Nhật Bản lúc đó thấp
hơn. Về mặt xã hội, đó là sự tồn tại của chế độ thị tộc còn khá phổ biến, và
về kinh tế là trình độ của lực lượng sản xuất còn rất thấp kém. Những thấp
kém trong lĩnh vực kinh tế được biểu hiện cả trong lĩnh vực tư tưởng. Ở
Nhật Bản chưa hình thành các tư tưởng có tính hệ thống trong nghệ thuật,
tôn giáo, triết học Khi những quan hệ đầu tiên của Nhật Bản hình thành
với lân bang qua buôn bán và nhất là chiến tranh, người Nhật đã nhận ra
rằng, bên cạnh họ là những quốc gia có trình độ phát triển cao hơn.
EDWIN.O.REIS CHAUER đã từng khẳng định: "Không có gì đáng ngạc
nhiên nếu người Nhật sơ khai trên một đất nước gồm những hòn đảo biệt
lập của họ cảm nhận được những phản quang của đế quốc Trung Hoa mới
và bừng tỉnh với một nhận thức mới về cái đất nước lớn lao ở bên kia bờ
biển" [26, tr. 23].
Tuy nhiên như lịch sử đã chứng tỏ, buổi đầu giao tiếp với Trung
Hoa, những vay mượn diễn ra rất chậm chạp và không tự giác. Mãi cho đến
gần cuối thế kỷ thứ VI thì có một sự gia tăng đột ngột trong quá trình du
nhập các yếu tố của văn hóa Trung Hoa vào Nhật Bản. Sự thật này chỉ có
thể giải thích bởi hai lý do:
- Một là: Có thể dân tộc Nhật lúc ấy mới đạt được một trình độ văn
hóa cho phép họ nhận thức ra và có đủ khả năng để tiếp nhận các nhân tố
ngoại lai một cách nhanh chóng và có ý thức.
- Hai là: Mọi giá trị văn hóa, tự nó đều có nhu cầu và khả năng lan
tỏa hay bành trướng, nhất là khi chúng đạt trình độ cao. Trong thời kỳ đó, ở
11
Trung Hoa, nhà Đường đã tạo ra một chế độ phong kiến đạt đến cực thịnh,
vì vậy khả năng lan tỏa của nó ra xung quanh dễ dàng hơn.
Những tiếp xúc, giao lưu văn hóa giữa Nhật Bản và Trung Hoa lúc
đầu thông qua vai trò của những thương gia, thợ thủ công hay tù binh dưới
dạng hành vi và nhân cách của các cá nhân đó hay qua những vật phẩm hữu
hình có được trong các cuộc trao đổi. Dần dần những kiểu tiếp xúc đó trở
nên thứ yếu và thay bằng cuộc tiếp xúc tôn giáo. Điều cần thấy ở đây là, lúc
này Phật giáo cực thịnh ở Trung Hoa và Phật giáo trở thành công cụ
chuyển tải văn hóa quan thiết nhất từ đại lục sang Nhật Bản.
Sự xâm nhập của Phật giáo vào Nhật Bản cũng vậy, lúc đầu bằng
con đường dân gian. Những ảnh hưởng của Phật giáo lớn dần, gây chấn
động đến cả tầng lớp thống trị. Những chấn động đó đã tạo nên hai xu
hướng tư tưởng chủ yếu trong thị tộc Yamato đến mức gây nên những xung
đột giữa nhóm ủng hộ Phật giáo và phản đối Phật giáo. Sự thắng lợi của
nhóm ủng hộ Phật giáo diễn ra khoảng năm 587 đã mở đường cho sự tiếp
nhận nhanh hơn các tư tưởng của Trung Hoa nói chung và tín ngưỡng Phật
giáo nói riêng. Nhờ sự nâng đỡ của chính quyền, nhiều phái đoàn người
Nhật được cử sang đại lục học hỏi tri thức và ở trong nước Phật giáo được
hỗ trợ, trở thành tôn giáo có vị thế còn lớn hơn cả Shinto.
Như vậy, có thể nói rằng, sự du nhập của Phật giáo vào Nhật Bản
không thuần túy chỉ là sự bành trướng văn hóa của người Trung Hoa và
nếu giả định đó là sự bành trướng văn hóa mà thiếu sự nhiệt tình tiếp nhận
từ phía Nhật Bản thì khả năng bén rễ, tồn tại, phát triển của nó sẽ khó khăn
hơn nhiều. Điều này là có cơ sở bởi, một mặt, khi văn minh nhà Đường có
dấu hiệu suy vi thì người Nhật cũng bắt đầu suy nghĩ lại. Đó là sự tái khẳng
định ngày càng mạnh mẽ tinh thần độc lập về văn hóa được biểu hiện qua
thái độ không còn chăm chú học hỏi hay thái độ quá sùng bái đối với mọi
12
yếu tố của văn minh Trung Hoa. Mặt khác, qua lịch sử nước Nhật ta thấy,
dân tộc đó có sự khôn ngoan đặc biệt trong tiếp nhận văn hóa ngoại lai. Họ
tiếp nhận rất nhiều yếu tố ngoại lai song vẫn luôn tìm cách giữ gìn, phát
triển các nhân tố bản địa. Bằng chứng là, khi Phật giáo du nhập, có cuộc
đấu tranh giữa Thần - Phật. Cuộc đấu tranh đó tiếp tục diễn ra trong các
thời kỳ và cuối cùng Phật giáo bị bản địa hóa mặc dù có thời kỳ Phật giáo
trở thành trụ cột và chi phối mạnh mẽ các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.2.2. Một số đặc điểm chính của Phật giáo ở Nhật Bản buổi đầu
du nhập
Theo quy luật của sự tiếp biến văn hóa, khi muốn bắt rễ vào một
khu vực nào đó, các hiện tượng văn hóa ngoại lai phải biến đổi cho phù
hợp với những yêu cầu của bản địa. Quá trình du nhập của Phật giáo vào
Nhật Bản cũng không nằm ngoài quy luật chung đó. Nó đã có nhiều biến
đổi đến mức làm cho một số yếu tố của Phật giáo ở Nhật Bản đã có những
khác biệt khá căn bản với Phật giáo, Ấn Độ hay với Phật giáo Trung Hoa.
Những biến đổi đó lúc đầu được tạo nên bởi nền tảng kinh tế - xã hội cũng
như những yêu cầu của cư dân Nhật Bản, của văn hóa Nhật Bản nhưng đến
lượt nó, nhiều khi lại trở thành những định hướng cho sự phát triển của văn
hóa Nhật Bản về sau. Vì lẽ ấy, mặc dù tồn tại trong những điều kiện của
một xã hội hiện đại nhưng văn hóa Nhật Bản vẫn giữ được những yếu tố
như nhân ái, mềm mại của đạo Phật, cứng nhắc đến tàn nhẫn của võ sĩ đạo,
thực dụng như Khổng giáo và mộng mơ siêu thoát của thiền, tư tưởng trọng
lợi ích vật chất và yêu cái đẹp da diết, một tư duy khoan hòa nhưng lại chứa
đầy tính duy lý v.v
Nghiên cứu quá trình du nhập của Phật giáo vào Nhật Bản có thể
rút ra một số đặc điểm chủ yếu như sau:
13
Một là: So với các nước trong khu vực, thời điểm du nhập Phật giáo
vào Nhật Bản có muộn hơn. Theo các nguồn sử liệu còn lưu lại, khoảng thế
kỷ VI Phật giáo đã từng có mặt ở Nhật Bản. Việc du nhập Phật giáo vào
Nhật Bản chủ yếu từ hai con đường: Trung Quốc và Triều Tiên (Phật giáo
có mặt ở Triều Tiên sớm hơn ở Nhật Bản chừng 150 năm). Cuốn Lịch sử
Phật giáo thế giới (tập I) có dẫn lại sách Phù Tang lược ký cho biết: "Tháng 2
năm thứ 16 sau khi Kế Thể Thiên Hoàng tức vị (năm thứ 3 niên hiệu Phổ
Tông Vũ Đế nhà Lương, năm 522) một người Hán là Tư Mã Đạt đến Nhật
Bản làm nhà cỏ ở bản Điền Nguyên, quận Cao Thị nước Đại hòa, bày
tượng phật lễ bái". Cũng theo nguồn sử liệu trên thì vào tháng 10 năm 522
(năm thứ 13 đời Khâm Minh Thiên Hoàng) có Thánh Minh Vương ở nước
Bách Tế trên bán đảo Triều Tiên đã sai Cơ Thị Đạt dẫn đầu một đoàn người
đến tặng một pho tượng Phật Thích Ca bằng đồng và có cờ phướn, kinh
luân". Giới nghiên cứu ở Nhật Bản quen gọi hai con đường du nhập Phật
giáo: Tư truyền và Công truyền để phân biệt Phật giáo được dân gian
truyền vào và chính phủ truyền vào.
Qua nghiên cứu thời điểm và con đường du nhập Phật giáo vào
Nhật Bản có thể thấy rằng, Phật giáo được du nhập muộn hơn một số nước
trong khu vực, hơn nữa Phật giáo trên con đường truyền bá đã từng bị khúc
xạ qua nhiều nước trung gian vì vậy nó không còn nguyên vẹn như Phật
giáo chính gốc. Điều căn bản hơn là ở chỗ Phật giáo ở Nhật Bản bị chi phối
mạnh bởi các yếu tố tín ngưỡng bản địa vốn đã có truyền thống ở Nhật Bản
đó là tục thờ Kami (biểu tượng thần linh của Shinto). Điều này cũng cho
thấy trong lịch sử tồn tại của Phật giáo ở Nhật Bản luôn có sự giằng co
thậm chí là xung đột trong đời sống tín ngưỡng của cá nhân và trên bình
diện xã hội giữa một bên là Phật và bên kia là Thần. Nếu so sánh với Phật
giáo ở Việt Nam ta thấy Phật giáo được du nhập vào Việt Nam sớm hơn
vào Nhật Bản khoảng 6 thế kỷ. Ở Việt Nam ngoài con đường du nhập Phật
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét