Thứ Tư, 26 tháng 2, 2014

Phát triển xuất khẩu gạo - Thực trạng và giải pháp

đôi bên cùng có lợi” như nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VII mà Đảng ta khẳng
định.
Việt Nam là một nước nhiệt đới gió mùa, đông dân, lao động dồi dào, giá lao
động rẻ…bởi vậy, Việt Nam tập trung vào sản xuất những mặt hàng tận dụng sự ưu
đãi của thời tiết khí hậu, sử dụng nhiều lao động, ít vốn. Tận dụng tốt các lợi thế này
để xuất khẩu là hướng đi đúng đắn phù hợp với qui luật thương mại quốc tế.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của xuất khẩu
a. Mục tiêu của xuất khẩu
Mục tiêu của hoạt động xuất khẩu có thể giống với mục tiêu của hoạt động
doanh nghiệp hay mục tiêu cụ thể của từng thời kì cụ thể nào đó. Một doanh nghiệp
phấn đấu xuất khẩu có thể không để nhập khẩu mà để thu ngoại tệ là hướng lợi do
việc chuyển đổi ngoại tệ thu được ra tiền Việt Nam. Ở một thời đểm nào đó xuất
khẩu có thể dùng để trả nợ, để mua vũ khí, để chi cho hoạt động ngoại giao…
Đó là mục tiêu của xuất khẩu, nhưng mục tiêu quan trọng chủ yếu của xuất
khẩu là nhập khẩu, đáp ứng nhu cầu rất đa dạng nền kinh tế, phục vụ cho công
nghiệp hoá đất nước, cho tiêu dùng, cho xuất khẩu và tạo công ăn việc làm…
Xuất khẩu là để nhập khẩu do đó thị trường xuất khẩu phải xuất phát từ yêu cầu
của thị trường nhập khẩu để xác định phương hướng và tổ chức nguồn hàng.
b. Nhiệm vụ của hoạt động xuất khẩu
Để thực hiện các mục tiêu trên, hoạt động xuất khẩu cần hướng vào thực hiện
các nhiệm vụ sau đây:
- Phải ra sức khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước (đất đai, nhân
lực, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất….)
3. Vai trò của xuất khẩu gạo
a. Một số nét chính về gạo
Theo thống kê nông nghiệp của FAO, các loại lương thực truyền thống chủ yếu
được sản xuất và tiêu thụ trên thế giới bao gồm trước hết năm loại cụ thể: mỳ, ngô,
kê, lúa mạch. Trong số các loại lương thực cơ bản nhất dùng cho con người. Để sống
và làm việc con người tất yếu phải được cung cấp năng lượng từ khẩu phần ăn đa
dạng hằng ngày. Thực tế trong cơ cấu lương thực thế giới hiện nay riêng gạo đã cung
cấp tỷ lệ Calo rất cao cho dân số ở trong loạt nước.
5
* Cách phân loại gạo
Theo chủng loại giống lúa canh tác: bao gồm gạo Taponicoc, gạo chiêm, gạo
mùa, gạo tẻ, gạo nếp, gạo đài trà thông thường, gạo thơm đặc sản… theo Viện nghiên
cứu lúa Quốc tế có khoảng 7000 giống lúa khác nhau nhưng chỉ có một số giống
truyền thông đạt giá trị kinh tế cao.
+ Theo quy trình công nghệ chế biến và độ nẩy cao, có gạo lực, gạo còn phôi,
gạo xát trắng, gạo đồ hấp, gạo hồ tẩy, gạo bóng.
+ Theo hình dáng và kích cỡ: người ta có thể chia ra gạo hạt dài, gạo hạt tròn,
hạt gạo trung bình, gạo hạt ngắn….
+ Theo kích cỡ hạt vỡ và tỉ lệ lầm: mậu dịch gạo Quốc tế còn quy định cụ thể
độ vỡ ít và vỡ nhiều…gạo có độ vỡ ít (nếu phần còn lại lớn hơn 5/10 hạt nguyên vẹn)
và ngược lại loại hạt có độ vỡ nhiều (nếu kích thước phần còn lại chỉ bằng 5/10 ->
2/10 hạt nguyên vẹn), gạo có độ vỡ nhiều như vậy được gọi là tầm. Tỉ lệ lẫn phẩm là
một tiêu thức quan trọng để xác định phẩm cấp gạo và mức giá giao dịch.
+ Theo màu sắc: có gạo trắng, gạo trắng trong, gạo trắng đục, gạo đỏ, gạo nâu,
gạo bạc bụng, gạo hạt vàng…. Khi gạo xuất hiện bạc bụng, hạt vàng thì chất lượng sẽ
bị giảm rút, dù giá giảm nhưng vẫn khó tiêu thụ trong buôn bán quốc tế hiện nay.
Ngoài ra việc phân loại trong mậu dịch Quốc tế còn chú ý đến những tiêu thức
khác như tỉ lệ thuỷ phân không quá 14% tỉ lệ hạt vàng không quá 1%, tỉ lệ tạp chất
không (đá, sỏi, kim loại….) không quá 0,05%, tỉ lệ tạp chất thực vật (rơm, cỏ…)
không quá 1,5% cũng như tỉ lệ gạo lẫu, gạo bạc bụng biến mất.
b. Vai trò của xuất khẩu gạo
* Xuất khẩu gạo giải quyết vấn đề ngoại tệ cho quốc gia, có ngoại tệ để nhập
khẩu nhằm phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá đất nước.
Hiện nay gạo chiếm giá trị kim ngạch lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của
đất nước. Trong khi đó cán cân thanh toán ngoại tệ của Việt Nam luôn bị thâm hụt,
do đó cần có một khoản ngoại tệ bổ sung sự thâm hụt đó.
Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu
khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hoá
đất nước trong thời gian ngắn đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc
thiết bị kĩ thuật công nghệ tiên tiến .
6
Nguồn vốn để nhập khẩu hình thành từ nhiều nguồn: đầu tư nước ngoài, đi vay,
viện trợ và xuất khẩu. Các nguồn đầu tư nước ngaòi, đi vay, viện trợ tuy quan trọng
nhưng cũng phải trả dù cách nay hay cách khác. Nguồn quan trọng nhất chỉ có thể
trông chờ vào là xuất khẩu mà trong đó xuất khẩu gạo chiếm vị trí quan trọng.
* Xuất khẩu gạo đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần
thúc đẩy sản xuất phát triển.
Với quan điểm coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất
và xuất khẩu. Quan điểm này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc
đẩy sản xuất phát triển để thực hiện:
- Xuất khẩu gạo sẽ tạo điều kiện cho các ngành khác cùng cơ hội phát triển.
- Xuất khẩu gạo tạo điều kiện, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm góp phần
ổn định sản xuất.
- Tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất gạo mở rộng
khả năng tiêu dùng của một quốc gia.
Thông qua xuất khẩu gạo Việt Nam sẽ có điều kiện tham gia vào cuộc cạnh
tranh trên thị trường thế giới cả về giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh này có tác
dụng ngược trở lại buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải tổ chức, xem xét lại khâu
sản xuất, hình thành một cơ cấu sản xuất thích hợp, các doanh nghiệp cũng cần phải
nhìn lại chất lượng sản phẩm của mình để thích nghi với những biến động của thị
trường thế giới.
* Xuất khẩu gạo có tác dụng tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc
làm và cải thiện đời sống nhân dân
- Tác động của xuất khẩu gạo đến đời sống nông dân được thể hiện trên nhiều
phương diện. Một mặt sản xuất gạo là nơi thu hút nhiều lao động và việc làm có thu
nhập khá ổn định. Mặt khác xuất khẩu gạo tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu sản phẩm
tiêu dùng đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng phong phú của nhân dân.
- Giải pháp xuất khẩu là sự đòi hỏi nhất thiết của thực trạng kinh tế. Khi thực
hiện xuất khẩu một lượng mặt hàng gạo dư thừa trong thị trường nội địa sẽ được giải
quyết lập lại cung cầu ở giá cao hơn. Nông dân không những bán được hàng mà còn
được giá. Từ những điều này mang lại cho nông dân thu nhập cao hơn và đây chính
là động lực thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển.
7
- Ngoài ra thông qua xuất khẩu gạo chúng ta phần nào hiểu rõ hơn về yêu cầu
của thị trường đối với mặt hàng gạo. Mối quan hệ giữa thị trường nước ngoài và sản
xuất trong nước được thực hiện qua xuất khẩu là cách tốt nhất để nâng cao trình độ
và hiệu quả của nền công nghiệp.
II. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ VÀ ĐỘNG THÁI PHÁT TRIỂN
XUẤT KHẨU GẠO Ở NƯỚC TA
1. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của thị trường gạo xuất khẩu
* Thị phần của mặt hàng gạo xuất khẩu trên thị trường
Đây là chỉ tiêu phản ánh đúng đắn nhất sự phát triển của thị trường. Tất cả các
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên thị trường đều muốn sản phẩm của mình
chiếm càng nhiều thị phần, điều này đồng nghĩa là doanh nghiệp có càng nhiều khách
hàng tiêu dùng trên thị trường đó. Thị phần được đánh giá dựa trên doanh thu về sản
phẩm của mình trên thị trường đó và tỷ lệ doanh thu so với các đối thủ cạnh tranh với
mình, hay căn cứ vào khối lượng sản phẩm gạo xuất khẩu vào một thị trường nào đó
so với đối thủ cạnh tranh.
Thị phần của doanh nghiệp trên một đoạn thị
trường so với đối thủ cạnh tranh
=
Khối lượng gạo xuất khẩu của doanh
nghiệp vào thị trường đo
Doanh thu gạo xuất khẩu của đối thủ
cạnh tranh vào thị trường đó.
Hoặc
Thị phần của doanh nghiệp =
Doanh thu của doanh nghiệp (đất nước)
Tổng doanh thu trên thị trường
Hoặc
Thị phần =
Lượng bán
x 100%
Lượng tiêu thụ trên thị trường
Thị phần càng lớn thì độ chi phối thị trường càng lớn. Nhưng chỉ tiêu này rất
khó xác định do rất khó biết được thông tin chính xác về lượng tiêu thụ của các đối
thủ cạnh tranh trên thị trường.
* Quy mô và sự tăng trưởng
Quy mô của thị trường gạo xuất khẩu nó phản ánh qua quy mô của khách hàng,
số lượng các hợp đồng ngoại thương về nhập khẩu mặt hàng gạo của công ty. Bên
cạnh đó quy mô của thị trường gạo xuất khẩu còn thể hiện ở phạm vi địa lý mà sản
phẩm gạo của công ty, đất nước được đưa tới. Quy mô của thị trường gạo xuất khẩu
8
phải đủ lớn để bù đắp chi phí và lãi của công ty. Chỉ tiêu này không phản ánh hoàn
toàn chính xác tuyệt đối mức độ phát triển của thị trường.
Mức độ tăng trưởng của thị trường ảnh hưởng đến mức độ tiêu thụ, cạnh tranh
và khả năng sinh lời của doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
* Sức hấp dẫn của thị trường
Phản ánh khả năng sinh lời của thị trường. Thị trường nào có nhu cầu lớn về
hàng gạo xuất khẩu của doanh nghiệp, đất nước và hoạt động tiêu thụ trên thị trường
đó của công ty có thể đáp ứng tốt thì thị trường đó trở thành thị trường hấp dẫn. Có 5
yếu tố ảnh hưởng đến mức độ hấp dẫn nội tại về lợi nhuận lâu dài của một thị trường.
Một là, số lượng doanh nghiệp trong một ngành: nếu thị trường có quá nhiều
đối thủ cạnh tranh thì thị trường đó không mấy hấp dẫn.
Hai là, số lượng các đối thủ tiềm ẩn: Một thị trường sẽ không hấp dẫn nếu có
thể thu hút nhiều đối thủ cạnh tranh mới. Việc tham gia vào thị trường của các đối
thủ cạnh tranh mới này phụ thuộc vào rào cản của ngành xuất khẩu.
Ba là, Mối đe doạ từ các nhà sản xuất, nhà cung ứng: một đoạn thị trường sẽ
không hấp dẫn nếu nhà sản xuất, cung ứng gây ép đối với sản phẩm kinh doanh của
doanh nghiệp. Trong khi các sản phẩm nông sản như là gạo cạnh tranh được trên thị
trường đòi hỏi phải có chất lượng ngày càng cao và giá thành ngày càng hạ.
Bốn là, Mối đe dạo từ phía khách hàng: Một đoạn thị trường sẽ không hấp dẫn
nếu người mua có quyền thương lượng lớn hay ngày càng cao. Người mua sẽ gây sức
ép về sản phẩm đòi hỏi có chất lượng cao hơn, dịch vụ văn minh hơn nhưng không
muốn tăng giá thậm chí còn muốn giá giảm. Sản phẩm gạo xuất khẩu của Việt Nam
chủ yếu là sản phẩm thô, chất lượng thấp, hàm lượng chế biến không cao, nó gây khó
khăn cho việc vận chuyển trên chặng đường dài qua các quốc gia, châu lục. Vì vậy,
sản phẩm gạo của ta luôn bị ép giá so với sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh.
Năm là, Mối đe doạ về những sản phẩm thay thế: Thị trường sẽ không hấp dẫn
nếu có nhiều sản phẩm thay thế lực hay tiềm ẩn. Các sản phẩm thay thế sẽ tạo ra rào
cản cho nhu cầu tiêu dùng những sản phẩm được thay thế. Qua đó giảm lợi nhuận của
công ty trên thị trường đó.
* Mức độ tập trung hay phân tán của thị trường
9
Để đánh giá mức độ tập trung hay phân tán của các chiến lược lựa chọn thị
trường xuất khẩu gạo thì thay cho chỉ tiêu số lượng thị trường người ta có thể sử
dụng chỉ tiêu phần ngân sách của doanh nghiệp, đất nước, được phân phối cho các
khu vực thị trường khác nhau. Mức độ tập trung của việc phát triển thị trường gạo
xuất khẩu còn có thể tính bằng hệ số tập trung, được định nghĩa như tổng bình
phương của số phần trăm hàng hoá của doanh nghiệp, đất nước được tiêu thụ ở thị
trường nước ngoài.
Mức độ tập trung của thị trường : C
2
1
n
i
C S
=

Trong đó:
C: Là hệ số tập trung thị trường
S
i
: Tỷ lệ % hàng hoá của doanh nghiệp được tiêu thụ ở nước thứ i
n: Số nước
* Chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận
• Doanh thu = khối lượng hàng hoá bán ra x giá bán
• Doanh thu tăng có thể nói phát triển thị trường có hiệu quả. Tuy vậy, chỉ
doanh thu thì chưa đủ cơ sở để khẳng định chắc chắn điều đó, mà còn phải xem xét
đến khả năng doanh thu có bù đắp được chi phí không, vì vậy người ta sử dụng chỉ
tiêu lợi nhuận.
• Lợi nhuận do phát triển thị trường
Lợi nhuận do phát
triển thị trường
=
Doanh thu tăng thêm do
phát triển thị trường
-
Chi phí để phát triển
thị trường
• Tỷ suất doanh lợi: Chỉ tiêu này cho thấy có thể thu được bao nhiêu lợi nhuận
từ hoạt động xuất khẩu nông sản khi bỏ ra 1 đồng chi phí.
Tỷ suất doanh lợi =
Lợi nhuận bán hàng
Chi phí cho hoạt động bán hàng
10
• Tỷ suất lợi nhuận: Cho biết một đồng vốn kinh doanh bỏ ra trong hoạt động
xuất khẩu gạo sẽ thu được bao nhiêu lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận =
Lợi nhuận
Vốn kinh doanh
• Tỷ suất ngoại tể xuất khẩu
Tỷ suất ngoại tệ
xuất khẩu nông sản
=
Số nội tệ bỏ ra để
xuất khẩu nông sản
Số ngoại tệ thu về từ hoạt động xuất
khẩu nông sản
Nếu tỷ xuất ngoại tệ lớn hơn tỷ lệ giá hối đoái thì nên xuất khẩu và ngược lại.
2. Động thái phát triển
Trên bình diện quốc tế, những kết quả dự báo tính đến thời điểm này cho thấy,
thị trường lúa gạo nói riêng và lương thực nói chung đang diễn biến theo chiều hướng
có lợi cho những nước xuất khẩu.
Cụ thể, sản lượng gạo toàn cầu niên vụ 2003 – 2004 chỉ đạt 388,3 triệu tấn,
giảm 2,7 triệu tấn còn trong niên vụ này, tuy tổng sản lượng dự báo đạt 399,8 triệu
tấn, nhưng tiêu thụ gạo toàn cầu lại đạt 417,3 triệu tấn và tồn kho gạo thế giới giảm
rất mạnh từ 105,8 triệu tấn xuống chỉ còn 82,7 triệu tấn, giảm tới 21,8%.
Với tương quan cung cầu gạo trên thị trường thế giới, cơ hội vàng đang đến với
mặt hàng gạo xuất khẩu của nước ta. Quan sát giá gạo xuất khẩu của nước ta kể từ
sau sự kiện sốt nóng giá gạo thế giới vào năm “El nino thế kỷ” 1998, chúng ta sẽ thấy
rất rõ điều này. Đó là tính bình quân, giá gạo xuất khẩu từ kỷ lục 274,73 USD/tấn
năm 1998 chẳng những đã “rơi tự do” xuống 227,49 USD/tấn năm 1999 (giảm
47,24USD/tấn hay 17,19%), mà còn rơi liên tục trong hai năm sau đó: năm 2000 chỉ
đạt bình quân 191,93 USD/tấn, giảm 35,56 USD/tấn hay 15,63%; năm 2001 xuống
tới mức thấp kỷ lục 167,53USD/tấn, giảm 24,40 USD/tấn hay 12,71%. Tiếp theo, tuy
giá gạo xuất khẩu năm 2002 đã tăng vọt lên 223,86 USD/tấn (tăng 56,33 USD/tấn
hay 33,62%), nhưng trong năm 2003 vừa qua lại giảm mạnh xuống chỉ còn 188,97
USD/tấn (giảm 34,89 USD/tấn hay 15,59%).
11
Trong khi đó, giá gạo bình quân trong 7 tháng đầu năm nay ước đạt khoảng 231
USD/tấn, tức đã tăng khoảng 42 USD/tấn hay 23,3% so với giá bình quân cả năm
2003 và đây là mức giá cao nhất kể từ năm 1998. Không những vậy, do cán cân cung
cầu gạo hiện vẫn căng thẳng, cho nên giá gạo thế giới vẫn đang tăng mạnh. Chẳng
hạn, nếu như vào thời điểm tháng 6 vừa qua, giá gạo 25% tấn trung bình khoảng 208
– 210 USD/tấn, thì hiện nay đã tăng lên 223 – 225 USD/tấn.
Tóm lại, sau hai năm giá gạo bị mất giá (1999-2000), nông dân nước ta đã
không còn mặn mà với cây lúa và sau hai năm thị trường gạo thế giới phập phù, năm
2004 này mới lại là năm chúng ta đứng trước cơ hội vàng được mùa, trúng giá.
Cũng từ thực tế đó, tuy khối lượng gạo xuất khẩu theo kế hoạch đã đạt 3,5 triệu
tấn, nhưng lượng lú trong nông dân từ nay đến cuối nằm tòn tương đối khá. Nhìn
những động thái của ngành nông nghiệp cho đến nay cho thấy, chúng ta còn có thể
đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng nông sản chiến lược này nữa. Đó là:
- Thứ nhất, về nguồn hàng, theo ước tính của Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn, tổng sản lượng lúa năm nay có thể đạt 35, 184 triệu tấn, tăng khoảng 800
nghìn tấn so với năm 2003, tương ứng khoảng 400 nghìn tấn gạo xuất khẩu.
Trong bối cảnh được mùa như vậy, cho dù hiện nay Bộ thương mại đã cho phép
“vượt rào” 3,5 triệu tấn gạo xuất khẩu bằng việc các doanh nghiệp có thể xuất khẩu
thêm 5.000 – 7.000 tấn/tháng đối với cả hai mặt hàng gạo nếp và gạo thơm, thì khối
lượng xuất khẩu có thể tăng thêm này vẫn không đủ lớn.
- Thứ hai, điều quan trọng hơn là cho tới tận thời điểm hiện tại, vụ hè thu chính
là vụ lúa đóng vai trò quyết định trong thành tích được mùa của một năm sản xuất
nông nghiệp đầy khó khăn hiện nay mới đang trong thời kỳ thu hoạch.
Cụ thể là, trong tổng sản lượng lúa ước tăng khoảng 8000 nghìn tấn của năm
nay so với năm 2003 vừa qua, con số đóng góp của vụ đông xuân chỉ là 173 nghìn
tấn, tức là tuyệt đại bộ phận lúa thực được mùa năm nay vẫn còn “năm ngoài dự
kiến”.
Do vậy, nếu không đẩy mạnh xuất khẩu gạo ngay trong năm nay, chẳng những
chúng ta có thể để “vượt” khỏi tầm tay cơ hội thắng lợi “kép”, mà rất có thể tình
trạng “chờ giáng xuống” mới đẩy mạnh xuất khẩu trong nhiều năm liên tục lại một
lần nữa lập lại. Có lẽ, trước việc Bộ thương mại “rung chuông cảnh báo” các doanh
12
nghiệp không được “vượt rào” ,5 triệu tấn gạo hồi giữa tháng 7 vừa qua, giá lương
thực từ đầu năm đến nay lần đầu tiên giảm trong tháng 7, mặc dù chỉ giảm ở mức độ
rất nhẹ 0,3%, nhưng cũng đủ là một tiếng chuông cảnh báo về việc giá lương thực
trong nước những tháng cuối năm sẽ tiếp tục giảm nếu đầu ra xuất khẩu không được
khai thông.
Nói cách khác, nếu chúng ta không đẩy mạnh xuất khẩu gạo trong năm nay,
chúng ta sẽ chỉ thu được một nửa thắng lợi “kép”: được mùa trong điều kiện cực kỳ
khó khăn, còn nửa trúng giá thì để “vượt” khỏi tầm tay giống hệt như năm 1998.
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT
NAM
1. Về điều kiện tự nhiên
- Việt Nam có diện tích 330.363km2 (thuộc loại có diện tích trung bình trên thế
giới). Đất đai màu mỡ rất thuận lợi cho ngành nông nghiệp.
- Bờ biển nước ta rất thuận lợi cho giao thông đường biển
- Vị trí lãnh thổ đã cho nước ta một nền khí hậu đặc biệt, nhiệt độ cao (trung
bình từ 22
0
C đến 27
0
C) và lượng mưa hàng năm lớn (trên 1500m), độ ẩm không khí
luôn luôn trên 80% vì vậy quanh năm cây cối có điều kiện phát triển tốt, mùa màng
có thể thu hoạch được từ 2 đến 4 vụ. Với nền khí hậu nhiệt đới gió mùa sẽ cho phép
Việt Nam phát triển một nền nông nghiệp phong phú đa dạng bao gồm các loại cây
lương thực và vây công nghiệp, cây ngắn ngày và dài ngày, ôn đới hay nhiệt đới;
trong đó lúa là cây lương thực truyền thống đóng vai trò chủ đạo.
2. Về lao động
Việt Nam là một nước có lao động trong nông nghiệp chiếm tỉ lệ cao xấp xỉ
70% lực lượng lao động trong cả nước. Thu nhập bình quân đầu người thấp hay nói
cách khác giá nhân công rẻ. Với lực lượng lao động dồi dào và giá nhân công rẻ tạo
ra sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam xuất hiện trên thị trường thế giới với giá thành
thấp, làm tăng sức cạnh tranh về giá của mặt hàng xuất khẩu Việt Nam.
Dù rằng chúng ta có nhiều khó khăn bất lợi trong việc sản xuất lúa như: giống
lúa có năng suất chưa cao, thuỷ lợi chưa được đầu tư, công nghệ chế biến thấp và
thiên tai xảy ra bất kì nhưng các nguồn lực sản xuất mà Việt Nam có lợi thế trên đây
đã mở ra cho nước ta một con đường phát triển mới hướng ra xuất khẩu. Theo quan
13
điểm về lợi thế so sánh: Việt Nam có thể tận dụng ưu thế về điều kiện tự nhiên đất
đai, khí hậu và lao động để sản xuất ra những sản phẩm xuất khẩu chứa hàm lượng
tài nguyên và lao động cao, vốn và kĩ thuật thấp hơn, hiện nay Việt Nam vẫn là một
nước chậm phát triển thì sản xuất lúa gạo giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc
dân. Sản xuất lúa gạo với đặc tính của sản xuất nông nghiệp: thứ nhất là thực hiện
sản xuất thực hiện trên diện rộng và phụ thuộc vào đặc điểm tự nhiên về đất đai,
nguồn nước… , thứ hai là thực hiện sản xuất cần nhiều lao động do tính chất phân bố
rộng của sản xuất và đòi hỏi bắt buộc khi thực hiện công việc. Vì vậy, sản xuất lúa
cho phép tận dụng được tốt thuận lợi về lao động tài nguyên thiên nhiên đồng thời
hạn chế bớt nhứng khó khăn về vốn, kĩ thuật – công nghệ, bởi sự đòi hỏi đầu tư về
vốn trong trồng trọt không lớn và kĩ thuật máy móc phục vụ cho sản xuất lúa ở khâu
trồng và chế biến không quá phức tạp, giá thành không cao lắm so với các loại công
nghệ tinh vi. Chính vì vậy, phát triển sản xuất lúa ở Việt Nam để xuất khẩu là rất
đúng đắn nó phù hợp với đặc điểm của nguồn lực sản xuất, cho phép tận dụng lợi thế
so sánh của nước trên thị trường quốc tế về mặt sản xuất mặt hàng gạo xuất khẩu.
3. Về chính sách
* Các yếu tố vĩ mô
Việt Nam mới ra nhập nền kinh tế thị trường nhưng đã nhanh chóng hoà nhập
vào vòng xoáy của nó. Để hạn chế tối đa những rủi ro mà nền kinh tế thị trường gây
ra Việt Nam đã chọn cho mình hướng đi riêng, đó là: “nềnkinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lí của nhà nước”. Nhà nước sử dụng những
công cụ vĩ mô để quản lý, định hướng hoạt động xuất khẩu.
- Công cụ chính sách thương mại về thuế quan
Thuế xuất khẩu được dùng làm công cụ để điều tiết và quản lý xuất khẩu. Thuế
này được đánh vào hàng hoá xuất khẩu nhằm hạn chế hay khuyến khích xuất khẩu.
Những mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam được Nhà nước khuyến khíc (trừ
một số mặt hàng hạn chế hoạch cấm xuất khẩu như gỗ quý, động vật quý hiếm….) và
cho áp dụng mức thuế suất khẩu hoặc bằng không. Tuy nhiên khi vào một thị trường
nước khác lại phải chịu một mức thuế nhập khẩu nhất định của nước sở tại. Nếu gạo
của ta không nhận được những ưu đãi của nước sở tại thì phải chịu mức thuế tương
đối cao do vấp phải sự bảo hộ ngành sản xuất trong nước. Và đây cũng là khó khăn
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét