VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO-TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỐI CAO
******
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
Số: 03/2005/TTLT-VKSNDTC-
TANDTC
Hà Nội, ngày 01 tháng 09 năm 2005
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO-TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO HƯỚNG
DẪN THI HÀNH MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ
KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ SỰ
THAM GIA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC
VỤ VIỆC DÂN SỰ
Để thi hành đúng và thống nhất một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (sau đây viết
tắt là BLTTDS) về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và sự tham gia
của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ việc dân sự (bao gồm các vụ
việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động), bảo đảm tốt mối
quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân; Viện kiểm sát nhân
dân tối cao và Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số điểm như sau:
I. VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Thông báo về việc thụ lý vụ việc dân sự
1.1. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý, Toà án thông báo bằng văn bản
cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ việc dân sự. Trong trường hợp
thụ lý nhiều vụ việc dân sự, Toà án có thể thông báo trong một văn bản về các vụ việc
dân sự mà Toà án đã thụ lý. Văn bản thông báo phải có đầy đủ các nội dung chính quy
định tại khoản 2 Điều 174 BLTTDS.
1.2. Sau khi thụ lý vụ việc dân sự, nếu xét thấy vụ việc dân sự đó không thuộc thẩm
quyền giải quyết của mình, thì Toà án đã thụ lý vụ việc dân sự ra quyết định chuyển hồ
sơ vụ việc cho Toà án có thẩm quyền theo qui định tại khoản 1 Điều 37 BLTTDS, đồng
thời gửi ngay quyết định chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Viện kiểm sát cùng cấp biết.
2. Chuyển hồ sơ vụ việc dân sự
2.1. Chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Viện kiểm sát cùng cấp để tham gia phiên toà,
phiên họp
Toà án phải chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Viện kiểm sát cùng cấp trong các trường
hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên toà, phiên họp theo qui định của BLTTDS, trừ các
trường hợp sau đây:
- Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án cấp phúc thẩm đã kháng nghị phúc thẩm;
- Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm đã kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm.
Việc chuyển hồ sơ vụ việc dân sự được thực hiện như sau:
a) Trong trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên toà sơ thẩm theo qui định tại khoản 2
Điều 21 BLTTDS và được hướng dẫn tại mục 1 Phần II của Thông tư này, Toà án cấp sơ
thẩm gửi hồ sơ vụ án dân sự cùng với quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát
ngay sau khi Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể
từ ngày nhận được hồ sơ, Viện kiểm sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Toà án theo
qui định tại khoản 2 Điều 195 BLTTDS.
b) Trong trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên toà phúc thẩm theo quy định tại khoản
2 Điều 264 BLTTDS và được hướng dẫn tại mục 2 Phần II của Thông tư này, Toà án cấp
phúc thẩm gửi hồ sơ vụ án dân sự cùng với quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm
sát ngay sau khi Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trong thời hạn mười lăm ngày,
kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Toà
án theo qui định tại khoản 2 Điều 262 BLTTDS.
c) Trong trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên toà, phiên họp giám đốc thẩm, tái
thẩm vụ việc dân sự, Toà án gửi hồ sơ vụ việc dân sự cùng với quyết định kháng nghị cho
Viện kiểm sát ngay sau khi Toà án ra quyết định kháng nghị. Trong thời hạn mười lăm
ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ việc cho Toà án có
thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm theo qui định tại khoản 2 Điều 290 và Điều 310
BLTTDS.
d) Trong trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên họp sơ thẩm, phúc thẩm giải quyết
việc dân sự, Toà án gửi hồ sơ việc dân sự cùng với quyết định mở phiên họp cho Viện
kiểm sát ngay sau khi Toà án ra quyết định mở phiên họp. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ
ngày nhận được hồ sơ, Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ cho Toà án để mở phiên họp theo
qui định tại khoản 1 Điều 313 BLTTDS.
đ) Trong trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên họp phúc thẩm đối với các quyết định
tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Toà án cấp sơ thẩm bị
kháng cáo, kháng nghị, Toà án cấp phúc thẩm gửi hồ sơ vụ án cùng với quyết định mở
phiên họp cho Viện kiểm sát ngay sau khi Toà án ra quyết định mở phiên họp. Trong thời
hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ
cho Toà án để mở phiên họp.
2.2. Chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Viện kiểm sát để xem xét kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm
a) Sau khi nhận được bản án, quyết định của Toà án chưa có hiệu lực pháp luật mà Viện
kiểm sát cùng cấp (trong trường hợp Viện kiểm sát không tham gia phiên toà sơ thẩm vụ
án dân sự) hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp xét thấy cần phải nghiên cứu hồ sơ vụ
việc dân sự để xem xét việc kháng nghị phúc thẩm, thì Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu
Toà án chuyển hồ sơ vụ việc cho Viện kiểm sát.
b) Ngay sau khi nhận được yêu cầu của Viện kiểm sát, Toà án chuyển hồ sơ vụ án việc
dân sự cho Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu.
c) Chậm nhất là ngay sau khi hết thời hạn kháng nghị phúc thẩm qui định tại Điều 252 và
khoản 2 Điều 317 BLTTDS, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ vụ việc dân sự cho Toà án đã
xét xử hoặc giải quyết sơ thẩm cùng với quyết định kháng nghị (nếu Viện kiểm sát có
kháng nghị).
2.3. Chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Viện kiểm sát để xem xét kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm
a) Khi Viện kiểm sát xét thấy cần thiết phải nghiên cứu hồ sơ vụ việc dân sự để xem xét,
báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ
tục tái thẩm, thì Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu Toà án đã ra bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật chuyển hồ sơ vụ việc dân sự đó cho Viện kiểm sát.
b) Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu chuyển hồ sơ, Toà án
chuyển hồ sơ vụ việc cho Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu.
c) Trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ việc dân sự, nếu Viện kiểm
sát không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm, thì Viện
kiểm sát phải chuyển trả lại hồ sơ vụ việc cho Toà án đã ra bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật. Nếu Viện kiểm sát có kháng nghị giám đốc thẩm hoặc kháng nghị tái thẩm, thì
Viện kiểm sát chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cùng với quyết định kháng nghị cho Toà án
có thẩm quyền giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo qui định tại Điều 290 và Điều 310
BLTTDS.
d) Trong trường hợp Viện kiểm sát và Toà án cùng có văn bản yêu cầu Toà án đã ra bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật chuyển hồ sơ vụ việc dân sự để xem xét việc kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc theo thủ tục tái thẩm, thì Toà án chuyển hồ sơ vụ
việc dân sự cho cơ quan có văn bản yêu cầu trước và thông báo bằng văn bản cho cơ
quan kia biết về việc đã chuyển hồ sơ đó.
Trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ việc dân sự, nếu cơ quan đã
được nhận hồ sơ vụ việc dân sự không có kháng nghị, thì thông báo cho cơ quan đã có
yêu cầu mà chưa được nhận hồ sơ biết. Nếu cơ quan đó vẫn có đề nghị chuyển hồ sơ vụ
việc dân sự để nghiên cứu, thì cơ quan đã được nhận hồ sơ mà không có kháng nghị phải
chuyển hồ sơ cho cơ quan đã có yêu cầu chuyển hồ sơ mà chưa được nhận hồ sơ.
Trong trường hợp cơ quan chưa được nhận hồ sơ không có đề nghị chuyển hồ sơ nữa, thì
cơ quan đã nhận hồ sơ chuyển trả hồ sơ vụ việc dân sự cho Toà án đã gửi hồ sơ cho mình.
2.4. Thủ tục chuyển hồ sơ vụ việc dân sự
a) Tất cả tài liệu có trong hồ sơ vụ việc dân sự phải được đánh số thứ tự và có bản kê
danh mục các tài liệu. Trước khi chuyển hồ sơ vụ việc từ Toà án sang Viện kiểm sát hoặc
ngược lại, cần kiểm tra đầy đủ tài liệu trong hồ sơ vụ việc dân sự đó. Người nhận hồ sơ
vụ việc dân sự phải đối chiếu bản kê danh mục tài liệu với tài liệu đã được đánh số thứ tự
trong hồ sơ vụ việc. Việc bàn giao phải được lập biên bản, có ký nhận của hai bên. Trong
trường hợp gửi hồ sơ theo đường bưu điện, thì cán bộ nhận hồ sơ vụ việc đầu tiên phải
kiểm tra đầy đủ tài liệu có trong hồ sơ, nếu phát hiện trong hồ sơ thiếu tài liệu nào thì
phải lập biên bản ghi rõ tài liệu thiếu và thông báo ngay cho cơ quan gửi hồ sơ biết.
b) Các hồ sơ, tài liệu, vật chứng mà đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp cho
Viện kiểm sát theo yêu cầu của Viện kiểm sát theo qui định tại khoản 3 Điều 85 BLTTDS
phải được chuyển cho Toà án để đưa vào hồ sơ vụ việc và bảo quản tại Toà án theo qui
định tại khoản 1 Điều 95 BLTTDS. Thủ tục giao nhận hồ sơ được thực hiện theo hướng
dẫn tại điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I của Thông tư này.
3. Thông báo Kiểm sát viên tham gia phiên toà, phiên họp và thay đổi Kiểm sát viên
3.1. Thông báo Kiểm sát viên tham gia phiên toà, phiên họp
Đối với các trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên toà, phiên họp dân sự, thì Viện
trưởng Viện kiểm sát phân công Kiểm sát viên tham gia phiên toà, phiên họp. Trong
trường hợp vụ việc dân sự có tình tiết phức tạp, phiên toà có thể phải kéo dài nhiều ngày
và xét thấy cần thiết thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thể phân công Kiểm sát viên dự
khuyết. Viện kiểm sát gửi thông báo bằng văn bản về việc phân công Kiểm sát viên,
Kiểm sát viên dự khuyết (nếu có) cho Toà án. Trong văn bản thông báo phải nêu rõ họ,
tên của Kiểm sát viên và Kiểm sát viên dự khuyết (nếu có) được Viện trưởng phân công
tham gia phiên toà, phiên họp.
3.2. Thông báo thay đổi Kiểm sát viên tham gia phiên toà, phiên họp
a) Sau khi thông báo cho Toà án biết việc phân công Kiểm sát viên, Kiểm sát viên dự
khuyết (nếu có) tham gia phiên toà, phiên họp, nếu thay đổi Kiểm sát viên đó, thì Viện
kiểm sát thông báo bằng văn bản cho Toà án biết. Trong văn bản thông báo ghi đầy đủ
họ, tên của Kiểm sát viên thay thế.
b) Trước khi mở phiên toà, phiên họp, nếu Toà án nhận được đơn yêu cầu thay đổi Kiểm
sát viên, thì Toà án chuyển ngay đơn yêu cầu đó cho Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm
quyền xem xét, quyết định theo qui định tại khoản 1 Điều 51 BLTTDS. Trong thời hạn ba
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu thay đổi Kiểm sát viên, Viện kiểm sát
phải thông báo bằng văn bản cho Toà án biết việc thay đổi hay không thay đổi Kiểm sát
viên đó. Nếu thay đổi Kiểm sát viên, thì Viện kiểm sát thông báo họ, tên của Kiểm sát
viên thay thế.
c) Nếu tại phiên toà, Hội đồng xét xử ra quyết định thay đổi Kiểm sát viên theo quy định
tại khoản 2 Điều 51 BLTTDS và được hướng dẫn tại mục 4 Phần II của Nghị quyết số
01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
hướng dẫn thi hành một số qui định trong Phần thứ nhất “Những qui định chung” của
BLTTDS, thì Toà án gửi ngay quyết định đó cho Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm
quyền theo qui định tại khoản 2 Điều 51 BLTTDS.
Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định của Hội đồng xét xử,
Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định phân công Kiểm sát viên khác thay
thế và thông báo bằng văn bản cho Toà án để Toà án tiếp tục giải quyết vụ việc dân sự
theo thủ tục chung.
d) Tại phiên họp giải quyết việc dân sự thuộc trường hợp do tập thể gồm ba Thẩm phán
giải quyết hoặc tại phiên họp phúc thẩm đối với quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình
chỉ vụ án dân sự của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, thì việc thay đổi
Kiểm sát viên được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 3.2 mục 3 Phần I của
Thông tư này.
đ) Trường hợp phiên họp giải quyết việc dân sự chỉ do một Thẩm phán giải quyết, nếu tại
phiên họp có yêu cầu thay đổi Kiểm sát viên và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ, thì
Thẩm phán ra quyết định hoãn phiên họp và chuyển yêu cầu thay đổi Kiểm sát viên cho
Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét quyết định theo qui định tại khoản 2
Điều 51 BLTTDS. Việc thay đổi Kiểm sát viên trong trường hợp này được thực hiện theo
hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 3.2 mục 3 Phần I của Thông tư này.
4. Hoãn phiên toà, phiên họp do Kiểm sát viên vắng mặt
4.1. Đối với các trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên toà, phiên họp dân sự theo qui
định của BLTTDS và hướng dẫn của Thông tư này, Kiểm sát viên được phân công có
trách nhiệm phải tham gia phiên toà, phiên họp.
4.2. Toà án hoãn phiên toà, phiên họp do không có Kiểm sát viên trong trường hợp Kiểm
sát viên được phân công không thể tham gia phiên toà, phiên họp do gặp trở ngại khách
quan mà Viện kiểm sát chưa cử được Kiểm sát viên khác thay thế, hoặc tại phiên toà,
phiên họp Kiểm sát viên được phân công không thể tiếp tục tham gia phiên toà, phiên
họp được và không có Kiểm sát viên dự khuyết để thay thế ngay.
Toà án phải thông báo ngay việc hoãn phiên toà, phiên họp cho Viện trưởng Viện kiểm
sát cùng cấp biết.
5. Thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
Theo qui định tại điểm đ khoản 1 Điều 44, Điều 250 và Điều 316 BLTTDS thì Viện
trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm đối với bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự của Toà án cấp sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, đối với các vụ việc dân sự do Toà án nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, thì Viện trưởng
hoặc Phó Viện trưởng Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm được
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao uỷ quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
đối với bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật.
6. Trách nhiệm của Viện kiểm sát trong trường hợp Toà án khởi tố vụ án hình sự.
6.1. Chuyển quyết định khởi tố vụ án hình sự cho Viện kiểm sát.
Trong trường hợp Toà án khởi tố vụ án hình sự khi có các căn cứ theo quy định tại Khoản
1 Điều 385 và khoản 3 Điều 387 BLTTDS thì trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày ra
quyết định khởi tố, Toà án phải căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố
tụng hình sự để chuyển quyết định khởi tố vụ án và tài liệu, chứng cứ chứng minh hành
vi phạm tội cho Viện kiểm sát có thẩm quyền giải quyết vụ án hình sự.
Trường hợp cần phải chuyển tài liệu cho Viện kiểm sát mà bản chính tài liệu đó phải lưu
trong hồ sơ vụ án dân sự, thì Toà án gửi bản sao tài liệu đó (có đóng dấu xác nhận của
Toà án) cho Viện kiểm sát.
6.2. Trách nhiệm của Viện kiểm sát.
Viện kiểm sát phải xem xét việc khởi tố, truy tố bị can trong thời hạn do Bộ luật tố tụng
hình sự quy định; nếu Viện kiểm sát không quyết định khởi tố, truy tố bị can thì Viện
kiểm sát thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do của việc không khởi tố, truy tố bị can cho
Toà án đã ra quyết định khởi tố vụ án biết theo quy định tại Khoản 2 Điều 388 BLTTDS.
II. VỀ VIỆC VIỆN KIỂM SÁT THAM GIA PHIÊN TÒA, PHIÊN HỌP
1. Viện kiểm sát tham gia phiên tòa sơ thẩm
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 21 BLTTDS, đối với những vụ án dân sự do Toà thu
thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại về việc thu thập chứng cứ đó của Toà án, thì
Viện kiểm sát phải tham gia phiên toà sơ thẩm.
1.1. Những vụ án dân sự đương sự có khiếu nại về việc thu thập chứng cứ của Toà
án bao gồm:
a) Những vụ án do Toà án thu thập chứng cứ theo quy định tại Khoản 2 điều 85
BLTTDS;
b) Những vụ án không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 85 BLTTDS, nhưng
Toà án tự mình tiến hành một hoặc một số biện pháp để thu thập chứng cứ theo quy định
tại Khoản 1 Điều 87, khoản 1 Điều 88 điểm b Khoản 1 Điều 92 BLTTDS.
1.2. Khiếu nại của đương sự về việc thu thập chứng cứ của Toà án là khiếu nại đối
với quyết định, hành vi của Toà án trong việc thu thập chứng cứ mà đương sự có
căn cứ cho rằng quyết định đó hoặc hành vi đó là không đúng pháp luật, bao gồm
các trường hợp sau:
a) Trong vụ án dân sự mà đương sự có yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ theo quy định
tại khoản 2 Điều 85 BLTTDS, nhưng Thẩm phán không tiến hành thu thập chứng cứ theo
yêu cầu của đương sự và đương sự khiếu nại;
b) Trong vụ án dân sự mà đương sự có yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ theo quy định
tại khoản 2 Điều 85 BLTTDS, nhưng Thẩm phán đã tiến hành biện pháp để thu thập
chứng cứ không đúng với biện pháp mà đương sự yêu cầu và đương sự khiếu nại;
c) Trong vụ án dân sự mà đương sự có yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ theo quy định
tại khoản 2 Điều 85 BLTTDS và Thẩm phán tiến hành biện pháp thu thập chứng cứ theo
đúng yêu cầu của đương sự nhưng không đầy đủ hoặc không đúng quy định của
BLTTDS về việc tiến hành biện pháp đó và đương sự khiếu nại;
d) Trong vụ án dân sự mà đương sự khiếu nại về việc Toà án thu thập chứng cứ theo yêu
cầu của đương sự khác;
đ) Trong vụ án dân sự mà không có đương sự nào có yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ,
nhưng Toà án vẫn tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định
tại khoản 2 Điều 85 BLTTDS và đương sự khiếu nại;
e) Trong vụ án dân sự mà đương sự khiếu nại về việc Toà án tự thu thập chứng cứ không
đúng với quy định tại khoản 1 Điều 87, khoản 1 Điều 88 và điểm b khoản 1 Điều 92
BLTTDS.
1.3. Việc giải quyết đơn khiếu nại của đương sự và Viện kiểm sát tham gia phiên toà
sơ thẩm.
a) Đương sự khiếu nại về việc Toà án thu thập chứng cứ phải làm đơn khiếu nại. Đơn
khiếu nại của đương sự phải có các nội dung chính sau đây:
- Ngày, tháng, năm viết đơn;
- Tên của Toà án hoặc Viện kiểm sát nhận đơn khiếu nại;
- Tên, địa chỉ của người khiếu nại;
- Tóm tắt nội dung vụ việc;
- Những quyết định, hành vi cụ thể của Toà án trong việc thu thập chứng cứ mà đương sự
khiếu nại và những yêu cầu cụ thể;
- Các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khiếu nại là có căn cứ.
Trường hợp đơn khiếu nại của đương sự không đầy đủ các nội dung trên thì Viện kiểm
sát hoặc Toà án nhận đơn hướng dẫn cho đương sự sửa đổi, bổ sung.
Trong trường hợp đương sự không biết chữ và trực tiếp đến Toà án hoặc Viện kiểm sát
để khiếu nại, thì Toà án hoặc Viện kiểm sát phải lập biên bản ghi lại nội dung khiếu nại
của đương sự.
b) Trong trường hợp Toà án nhận được đơn khiếu nại của đương sự thì trong thời hạn ba
ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Toà án chuyển bản sao đơn khiếu nại (có đóng dấu
xác nhận của Toà án) cho Viện kiểm sát cùng cấp để Viện kiểm sát thực hiện kiểm sát
việc tuân theo pháp luật và xem xét việc tham gia phiên toà.
c) Trong trường hợp Viện kiểm sát nhận được đơn khiếu nại của đương sự thì trong thời
hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Viện kiểm sát chuyển bản sao đơn khiếu nại
(có đóng dấu xác nhận của Viện kiểm sát) cho Toà án để Toà án giải quyết theo thẩm
quyền và có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho Toà án biết về việc tham gia phiên
toà của Viện kiểm sát.
d) Viện kiểm sát nhận được đơn khiếu nại do đương sự gửi đến hoặc do Toà án chuyển
đến phải vào sổ nhận đơn. Nếu Viện kiểm sát xét thấy cần yêu cầu Toà án xác minh, thu
thập chứng cứ trên cơ sở khiếu nại của đương sự thì Viện kiểm sát phải có văn bản yêu
cầu. Toà án phải tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ theo văn bản yêu cầu của Viện
kiểm sát và thông báo kết quả bằng văn bản cho đương sự và Viện kiểm sát biết. Sau khi
xem xét kết quả xác minh, thu thập chứng cứ của Toà án, Viện kiểm sát thông báo bằng
văn bản cho Toà án biết về việc tham gia phiên toà. Trong trường hợp Viện kiểm sát đã
có văn bản yêu cầu Toà án xác minh, thu thập chứng cứ trên cơ sở khiếu nại của đương
sự, nhưng đến ngày hết thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo quy định tại khoản 3 Điều
179 BLTTDS, mà Viện kiểm sát vẫn không nhận được văn bản thông báo về kết quả xác
minh, thu thập chứng cứ của Toà án, thì Viện kiểm sát vẫn phải tham gia phiên toà.
đ) Trong trường hợp đương sựu rút đơn khiếu nại hoặc sau khi Toà án đã giải quyết mà
đương sự không tiếp tục khiếu nại về việc thu thập chứng cứ của Toà án nữa, thì Toà án
thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát biết để Viện kiểm sát quyết định không tham
gia phiên toà. Trường hợp đương sự tiếp tục có đơn khiếu nại, thì Viện kiểm sát thông
báo bằng văn bản cho Toà án biết về việc tham gia phiên toà.
e) Trong trường hợp Viện kiểm sát có văn bản thông báo tham gia phiên toà trước khi
Toà án có quyết định đưa vụ án ra xét xử, thì sau khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử,
Toà án gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử và hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu
theo quy định tại khoản 2 Điều 195 BLTTDS.
g) Trong trường hợp Viện kiểm sát có văn bản thông báo tham gia phiên toà sau khi Toà
án có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì cần phân biệt như sau:
g.1. Trường hợp kể từ ngày nhận được văn bản thông báo của Viện kiểm sát về việc tham
gia phiên toà đến ngày mở phiên toà được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử còn
trên mười lăm ngày, thì Toà án chuyển ngay hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu
theo quy định tại khoản 2 Điều 195 BLTTDS.
g.2. Trường hợp kể từ ngày nhận được văn bản thông báo của Viện kiểm sát về việc tham
gia phiên toà đến ngày mở phiên toà được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử còn từ
mười lăm ngày trở xuống, nếu Viện kiểm sát có yêu cầu, thì Toà án chuyển ngay hồ sơ
vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu. Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ cho Toà án chậm
nhất vào ngày trước ngày mở phiên toà.
2. Viện kiểm sát tham gia phiên toà phúc thẩm.
2.1. Theo quy định tại khoản 2 Điều 264 BLTTDS, thì Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án
cấp phúc thẩm phải tham gia phiên toà phúc thẩm trong các trường hợp sau:
a) Khi Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án cấp sơ thẩm đã tham gia phiên toà sơ thẩm;
b) Khi Viện kiểm sát cùng cấp với Toà án cấp sơ thẩm không tham gia phiên toà sơ thẩm
nhưng có kháng nghị hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có kháng nghị bản án sơ thẩm.
2.2. Trong trường hợp đương sự có khiếu nại về việc thu thập chứng cứ của Toà án cấp
phúc thẩm, thì việc chuyển đơn khiếu nại của đương sự được thực hiện theo hướng dẫn
tại các điểm b và c tiểu mục 1.3 mục 1 Phần II của Thông tư này. Trường hợp xét thấy
cần thiết phải tham gia phiên toà phúc thẩm thì Viện kiểm sát thông báo bằng văn bản
cho Toà án cấp phúc thẩm biết. Toà án cấp phúc thẩm phải gửi quyết định đưa vụ án ra
xét xử và hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt
tại phiên toà phúc thẩm, thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành phiên toà theo thủ tục chung.
2.3. Trường hợp được hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 2.1 mục 2 Phần II của Thông tư
này, nếu trước khi khai mạc phiên toà phúc thẩm, Viện kiểm sát đã rút kháng nghị, thì
Viện kiểm sát không tham gia phiên toà phúc thẩm. Nếu sau khi khai mạc phiên toà phúc
thẩm, Viện kiểm sát mới rút kháng nghị, thì Kiểm sát viên vẫn tiếp tục tham gia phiên toà
và phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 234
BLTTDS.
3. Viện kiểm sát tham gia phiên toà giám đốc thẩm, phiên toà tái thẩm
Theo quy định tại khoản 1 Điều 292 và Điều 310 BLTTDS, Viện kiểm sát phải tham gia
tất cả các phiên toà giám đốc thẩm, phiên toà tái thẩm. Việc chuyển hồ sơ vụ án và quyết
định kháng nghị được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 2.1 mục 2 Phần I của
Thông tư này.
4. Viện kiểm sát tham gia phiên họp sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm
Theo quy định tại khoản 2 Điều 21, khoản 2 Điều 280, Điều 311, khoản 2 Điều 313 và
Điều 318 BLTTDS, thì Viện kiểm sát phải tham gia tất cả các phiên họp sơ thẩm, phúc
thẩm giải quyết việc dân sự; phiên họp phúc thẩm đối với quyết định tạm đình chỉ, quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị;
phiên họp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm quyết định đã có hiệu lực pháp luật về việc dân
sự.
Việc chuyển hồ sơ vụ việc dân sự được thực hiện theo hướng dẫn tại các điểm c, d và đ
tiểu mục 2.1 mục 2 Phần I của Thông tư này.
III. VỀ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
Khi thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong tố tụng dân sự quy định tại Điều 404 BLTTDS, Viện kiểm sát có các quyền sau
đây:
1. Quyền yêu cầu của Viện kiểm sát đối với Toà án
1.1. Viện kiểm sát yêu cầu Toà án cùng cấp và Toà án cấp dưới ra văn bản giải quyết
khiếu nại, tố cáo theo quy định tại Chương XXXIII BLTTDS khi thuộc một trong những
trường hợp sau đây:
a) Viện kiểm sát nhận được đơn khiếu nại, tố cáo về việc Toà án, người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại, tố cáo không ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thời hạn
quy định;
b) Viện kiểm sát có căn cứ xác định việc Toà án, người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại, tố cáo không ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thời hạn quy định.
Toà án được yêu cầu có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát trong thời hạn
ba ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trường hợp vụ việc phức tạp, cần có thêm thời
gian, thì Toà án phải có văn bản thông báo lý do cho Viện kiểm sát biết và trả lời cho
Viện kiểm sát trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
1.2. Viện kiểm sát yêu cầu Toà án cùng cấp kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
Toà án cấp mình và Toà án cấp dưới khi thuộc một trong những trường hợp sau đây:
a) Viện kiểm sát nhận được yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền;
b) Viện kiểm sát nhận được đơn khiếu nại, tố cáo về việc Toà án, người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại, tố cáo vi phạm pháp luật trong khi giải quyết.
c) Viện kiểm sát có căn cứ xác định việc Toà án, người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại, tố cáo có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong khi giải quyết.
Toà án được yêu cầu có trách nhiệm thông báo kết quả kiểm tra cho Viện kiểm sát trong
thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trường hợp vụ việc phức tạp cần
có thêm thời gian, thì Toà án phải có văn bản thông báo lý do cho Viện kiểm sát biết và
trả lời cho Viện kiểm sát trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
1.3. Trong trường hợp Viện kiểm sát đã yêu cầu Toà án thực hiện các biện pháp được
hướng dẫn tại các tiểu mục 1.1 và 1.2 mục 1 Phần III của Thông tư này mà không được
Toà án thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ, thì Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Toà
án cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cho Viện kiểm
sát.
Toà án được yêu cầu có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát trong thời hạn
bảy ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
2. Quyền kiến nghị của Viện kiểm sát đối với Toà án
2.1. Trường hợp qua nghiên cứu hồ sơ, tài liệu được Toà án cung cấp và xác minh thấy
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Toà án, người có thẩm quyền là thiếu căn cứ, không
đúng quy định của pháp luật, thì Viện kiểm sát kiến nghị với Toà án cùng cấp và Toà án
cấp dưới khắc phục vi phạm pháp luật.
2.2. Trường hợp Viện kiểm sát có yêu cầu (theo quy định tại mục 1 phần III của Thông tư
này) hoặc có kiến nghị khắc phục vi phạm pháp luật (theo quy định tại điểm 2.1 mục 2
Phần III của Thông tư này) đối với Toà án mà Toà án được yêu cầu, kiến nghị không
thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ yêu cầu, kiến nghị của Viện kiểm sát, thì Viện
kiểm sát kiến nghị với Toà án cấp trên.
IV. HIỆU LỰC THI HÀNH CỦA THÔNG TƯ
1. Thông tư này có hiệu lực thi hành sau mười lăm ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Những hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao trước đây
về những vấn đề được hướng dẫn trong Thông tư này hết hiệu lực thi hành.
2. Áp dụng hướng dẫn của Thông tư này đối với những vụ việc dân sự đã được thụ lý,
giải quyết trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành như sau:
2.1. Đối với những vụ việc dân sự đã được Toà án thụ lý giải quyết và bản án, quyết định
của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành, thì
không áp dụng hướng dẫn tại Thông tư này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm,
trừ trường hợp bản án, quyết định của Toà án bị kháng nghị theo các căn cứ khác.
2.2. Đối với những vụ án dân sự đã được Toà án thụ lý trước ngày Thông tư này có hiệu
lực thi hành và Toà án đã chuyển hồ sơ vụ án dân sự đó cho Viện kiểm sát nghiên cứu,
tham gia phiên toà, nhưng kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành mới xét xử sơ
thẩm, thì Viện kiểm sát chỉ tham gia phiên toà sơ thẩm đối với những vụ án thuộc trường
hợp được hướng dẫn tại mục 1 Phần II của Thông tư này.
2.3. Đối với những vụ án dân sự đã được xét xử sơ thẩm trước ngày Thông tư này có hiệu
lực thi hành, mà Viện kiểm sát không tham gia phiên toà sơ thẩm, nhưng kể từ ngày
Thông tư này có hiệu lực thi hành mới xét xử phúc thẩm, thì Viện kiểm sát chỉ tham gia
phiên toà phúc thẩm đối với những vụ án thuộc trường hợp được hướng dẫn tại mục 2
Phần II của Thông tư này.
2.4. Đối với những vụ án dân sự đã được xét xử sơ thẩm trước ngày Thông tư này có hiệu
lực thi hành mà Viện kiểm sát đã tham gia phiên toà sơ thẩm, nhưng kể từ ngày Thông tư
này có hiệu lực thi hành mới xét xử phúc thẩm, thì việc Viện kiểm sát tham gia phiên toà
phúc thẩm cần phân biệt như sau:
a) Nếu Viện kiểm sát tham gia phiên toà sơ thẩm thuộc trường hợp quy định tại khoản 2
Điều 21 BLTTDS và được hướng dẫn tại mục 1 Phần II của Thông tư này, thì Viện kiểm
sát phải tham gia phiên toà phúc thẩm;
b) Nếu Viện kiểm sát tham gia phiên toà sơ thẩm không thuộc trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều 21 BLTTDS và được hướng dẫn tại mục 1 Phần II của Thông tư này, thì
không bắt buộc Viện kiểm sát tham gia phiên toà phúc thẩm. Trong trường hợp Viên
kiểm sát có thông báo tham gia phiên toà phúc thẩm, nhưng tại phiên toà phúc thẩm
Kiểm sát viên vắng mặt, thì Toà án vẫn tiến hành xét xử phúc thẩm. Trong trường hợp
Viện kiểm sát có thông báo nhưng tại phiên toà phúc thẩm Kiểm sát viên vắng mặt, thì
Toà án vẫn tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án theo thủ tục chung.
2.5. Đối với vụ án dân sự được xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm trước ngày Thông tư này
có hiệu lực thi hành, nhưng kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành mà bản, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật bị Toà án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm tuyên huỷ để xét
xử lại theo thủ tục sơ thẩm hoặc phúc thẩm, thì việc Viện kiểm sát tham gia phiên toà
được thực hiện theo hướng dẫn của Thông tư này.
3. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc cần được giải thích hoặc hướng dẫn bổ
sung, thì báo cáo cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao để giải
thích, hướng dẫn bổ sung.
KT CHÁNH ÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỐI CAO
PHÓ CHÁNH ÁN
Đặng Quang Phương
KT. VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỐI CAO
PHÓ VIỆN TRƯỞNG
Khuất Văn Nga
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét