4
MỞ ĐẦU
1- Lý do chọn đề tài:
Ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, hệ thống thuế là một trong những
công cụ quan trọng của nhà nước để điều tiết vó mô nền kinh tế, phân phối tiêu
dùng, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển. Tất cả các quốc gia
đều luôn quan tâm đến việc cải cách hệ thống thuế nhằm đạt được mục tiêu đặt
ra trong từng thời kỳ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội.
Ở Việt Nam, nhiều sắc thuế đã được nghiên cứu và ban hành từ những
năm 1990 và qua nhiều lần cải cách, hoàn thiện để phù hợp với thực tế. Tuy
nhiên, hệ thống thuế vẫn còn nhiều điểm bất cập, không đồng bộ, thống nhất
giữa các chính sách thuế.
Đặc biệt, trong điều kiện hội nhập, nền kinh tế ngày càng phát triển thì xu
hướng nâng cao tỷ trọng thuế trực thu trong tổng nguồn thu ngân sách nhà nước
được Nhà nước đặt ra là hoàn toàn hợp lý và việc hoàn thiện các chính sách thuế
thu nhập đang rất cần thiết.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Hoàn thiện chính sách thuế thu
nhập góp phần phát triển kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập WTO” để
nghiên cứu làm luận văn thạc só.
2- Mục đích nghiên cứu:
- Hệ thống hoá quá trình phát triển thuế thu nhập ở Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng thuế thu nhập ở Việt Nam trong
thời gian qua, tham khảo thuế thu nhập các nước trên thế giới nhằm kiến nghò
những giải pháp hoàn thiện thuế thu nhập Việt Nam trong điều kiện hội nhập
WTO.
5
3- Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu các sắc thuế thu nhập tại Việt Nam trên phạm vi cả nước,
tham khảo thuế thu nhập một số nước trên thế giới.
4- Phương pháp nghiên cứu:
- Trên cơ sở lý luận về thuế thu nhập, bằng phương pháp thực nghiệm từ
thực tế qua thống kê, phân tích, tổng hợp để đánh giá thực trạng áp dụng thuế
thu nhập tại Việt Nam. Từ đó, tìm ra nguyên nhân tồn tại của các hạn chế và
đưa ra giải pháp.
Luận văn dài 67 trang, gồm phần mở đầu, 03 chương, phần kết luận và 02 bảng
phụ lục.
- Chương I: Các vấn đề cơ bản về thuế thu nhập
-
Chương II: Thực trạng thuế thu nhập tại Việt Nam
-
Chương III: Hoàn thiện hệ thống thuế thu nhập tại Việt Nam trong thời kỳ
hội nhập quốc tế
6
CHƯƠNG I: CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ THU NHẬP
1.1- Thuế thu nhập
1.1.1- Khái niệm thu nhập và thuế thu nhập
Về khái niệm thu nhập, tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà các nhà kinh tế
học đã đưa nhiều quan niệm khác nhau. Từ những quan niệm đơn giản của
Joseph E. Stiglitz đến những nghiên cứu sâu rộng hơn của hai nhà kinh tế người
Anh là R.M.Haig và H.C.Simons vào đầu thế kỷ 20.
Trên cơ sở đó, các nhà kinh tế học hiện đại đã có những quan niệm hoàn
chỉnh hơn về thu nhập mà đại diện cho trường phái này là nhà kinh tế học người
Mỹ Paul. A. Samuelson đã đưa ra khái niệm như sau: “thu nhập là tổng số tiền
kiếm được hoặc thu góp được trong một khoảng thời gian nhất đònh (thường là
một năm)”.
Về nguyên tắc, khi một cá nhân hay pháp nhân có thu nhập dưới bất cứ
hình thái nào (tiền hay hiện vật), từ bất cứ nguồn nào (sản xuất, kinh doanh hay
lao động,…) đều phải trích một phần thu nhập đó để nộp cho nhà nước dưới dạng
thuế thu nhập.
Thuế thu nhập là loại thuế mà đối tượng nộp thuế trích một phần thu nhập
của chính mình để nộp cho nhà nước. Thuế thu nhập không căn cứ vào mức độ
tiêu dùng mà căn cứ vào thu nhập đạt được.
1.1.2- Đặc điểm của thuế thu nhập
- Thuế thu nhập là loại thuế trực thu mà người chòu thuế chính là người
nộp thuế. Người chòu thuế trực tiếp nộp toàn bộ số thuế theo quy đònh của pháp
luật vào ngân sách nhà nước mà không thông qua tổ chức trung gian nào và cũng
không thể chuyển dòch thuế này cho người khác.
7
- Thuế thu nhập đánh thuế trên thu nhập do lao động tạo ra và cả thu
nhập không do lao động tạo ra như thừa kế, trúng số,…; và đánh thuế trên thu
nhập phát sinh trong nước và cả thu nhập phát sinh từ nước ngoài.
- Thuế thu nhập tác động đến hoạt động đầu tư phát triển kinh tế, chính
sách thuế thu nhập có thể khuyến khích hoặc kìm hãm các tổ chức, cá nhân đầu
tư vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, chuyển nhượng vốn,…
- Khác với thuế gián thu, thuế trực thu mà điển hình là thuế thu nhập
không ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá trên thò trường. Ví dụ: khi tăng, giảm thuế
GTGT, thuế XNK thì giá cả hàng hoá tăng, giảm theo; còn khi tăng hay giảm
thuế thu nhập thì giá cả hàng hoá trên thò trường vẫn không thay đổi. Ngược lại,
giá cả hàng hoá trên thò trường lại ảnh hưởng đến thuế thu nhập, đặc biệt là thuế
thu nhập doanh nghiệp vì giá cả hàng hoá ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí và
doanh thu. Ví dụ: khi giá cả nguyên vật liệu tăng thì ảnh hưởng đến lợi nhuận
của doanh nghiệp, lúc đó thuế thu nhập mà doanh nghiệp đóng góp vào ngân
sách nhà nước giảm.
1.2- Các yếu tố cơ bản của thuế thu nhập
Các quốc gia khi xây dựng hệ thống thuế thu nhập đều có những mục tiêu
và phương pháp tính riêng phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội. Thông
thường, chúng đều có những yếu tố cơ bản như sau:
- Thu nhập chòu thuế:
Thu nhập chòu thuế là cơ sở để tính thuế thu nhập phải nộp được thể hiện
dưới dạng tiền tệ. Thu nhập chòu thuế là tổng các khoản thu nhập thuộc diện
chòu thuế phát sinh trong kỳ tính thuế trừ đi các chi phí được giảm trừ. Mỗi pháp
nhân hay thể nhân đều có nhiều khoản thu nhập, trong đó có những khoản được
miễn thuế thu nhập theo luật đònh, vậy chỉ những khoản thu nhập thuộc diện chòu
8
thuế mới đưa vào tổng thu nhập chòu thuế. Các khoản được giảm trừ bao gồm
các chi phí để tạo ra thu nhập và các chi phí được giảm trừ khác.
Khi xây dựng thu nhập chòu thuếá cần phải xem xét đến tính khả thi trong
công tác quản lý để vừa tạo nguồn thu tối đa cho ngân sách nhà nước, vừa thúc
đẩy đầu tư phát triển kinh tế và đem lại công bằng xã hội. Chính điều này đòi
hỏi các quốc gia có hệ thống quản lý tốt, đồng bộ ở các ngành, các lónh vực để
có thể xây dựng các chính sách thuế phù hợp, hiệu quả.
Thông thường, đối với thuế thu nhập doanh nghiệp thì thu nhập chòu thuế
bằng doanh thu trừ đi các chi phí hợp lý. Chúng phụ thuộc nhiều vào phương
pháp hạch toán. Cách hạch toán doanh thu và chi phí cần phải được quy đònh rất
chặt chẽ thì việc tính toán thu nhập chòu thuế mới chính xác được. Việc xác đònh
các tiêu chuẩn, đònh mức để phân bổ chi phí thường khác nhau giữa nhà nước và
doanh nghiệp, mỗi bên đều có các lý lẽ riêng của họ nhưng nhà nước thường có
ưu thế hơn.
Còn đối với cá nhân thì thu nhập chòu thuế là tổng các khoản thu nhập trừ
đi các khoản được giảm trừ. Việc xác đònh những khoản thu nhập nào nằm trong
tổng thu nhập chòu thuế tuỳ vào mục đích đánh thuế của mỗi quốc gia. Khi xây
dựng thu nhập chòu thuế thu nhập cá nhân, các yếu tố cần phải xem xét như sau:
+ Nguồn gốc của thu nhập: thu nhập của mỗi cá nhân có được từ nhiều
nguồn khác nhau, các nguồn thu nhập cơ bản như: từ hoạt động sản xuất kinh
doanh, từ chuyển nhượng vốn, từ lao động, từ thừa kế, quà tặng,… Luật thuế phải
xác đònh thu nhập nào nằm trong tổng thu nhập chòu thuế để đảm bảo công bằng
vừa thúc đẩy các cá nhân làm giàu chính đáng.
9
+ Đánh thuế trên cơ sở thường trú hay nguồn phát sinh thu nhập: Tuỳ theo
luật thuế thu nhập của mỗi quốc gia, thu nhập chòu thuế được tính dựa trên cơ sở
thường trú hay nguồn phát sinh thu nhập.
Theo cách đánh thuế dựa trên cơ sở thường trú, pháp nhân hay thể nhân
thường trú phải nộp thuế tại nước đó và bò đánh thuế trên mọi khoản thu nhập từ
khắp nơi trên thế giới, còn đối tượng không thường trú chỉ bò đánh thuế trên
phần thu nhập phát sinh tại nước đó. Phương pháp này được hầu hết các quốc gia
trên thế giới áp dụng, tuy nhiên chưa có sự thống nhất giữa các quốc gia về tiên
chí xác đònh thường trú và không thường trú. Hơn nữa, phương pháp này thể hiện
nhược điểm khi giao lưu kinh tế xã hội ngày càng mở rộng và sự phát triển của
công nghệ thông tin vì lúc đó việc xác đònh tình trạng cư trú trở nên phức tạp và
dễ dẫn đến tình trạng lách thuế, trốn thuế.
Đánh thuế dựa trên nguồn phát sinh thu nhập cũng gặp không ít khó khăn.
Theo cách đánh thuế này, đối tượng nộp thuế chỉ nộp thuế đối với khoản thu
nhập phát sinh ở nước sở tại mà không phải nộp thuế đối với những khoản thu
nhập phát sinh ở nước ngoài. Khi kinh tế thế giới phát triển với hệ thống công
nghệ thông tin hiện đại, việc xác đònh nguồn thu nhập phát sinh ở đâu đối với
các hoạt động đầu tư, kinh doanh trở nên phức tạp vì có các hoạt động mua bán,
cung cấp dòch vụ trên mạng.
Vậy vấn đề đặt ra là việc lựa chọn phương pháp đánh thuế trên cơ sở cư
trú hay nguồn phát sinh thu nhập thực sự rất quan trọng mà các quốc gia cần
phải xem xét vì không những ảnh hưởng đến hệ thống thuế của quốc gia đó mà
còn là yếu tố quan trọng trong tiến trình đàm phán gia nhập kinh tế thế giới, ký
kết các hiệp đònh tránh đánh thuế trùng lắp giữa các quốc gia.
10
Các khoản thu nhập không chòu thuế thông thường bao gồm các khoản
sau:
+ Các khoản được miễn vì lý do kinh tế, vì đònh hướng phát triển kinh tế
của quốc gia nhằm khuyến khích ngành nghề, lónh vực hay đặc khu kinh tế đó
phát triển.
+ Các khoản được miễn vì lý do xã hội như phúc lợi xã hội, các khoản bồi
thường,…
+ Thực hiện theo các hiệp đònh đã ký kết hay các thông lệ quốc tế, các
cam kết trong tiến trình hội nhập,…
+ Một số khoản thu có thể tạm thời chưa đưa vào diện thu nhập chòu thuế
nếu không đảm bảo tính khả thi trong quản lý.
- Thuế suất:
Thuế suất là mức thu tính trên một đối tượng đánh thuế do nhà nước quy
đònh. Thuế suất được xây dựng phải phù hợp với khả năng thụ thuế của doanh
nghiệp hay các cá nhân chòu thuế, đem lại nguồn thu tối đa cho ngân sách nhà
nước, đồng thời là động lực cho nền kinh tế.
Thuế suất phải được xây dựng sao cho có tác dụng thúc đẩy được hoạt
động đầu tư phát triển kinh tế, khuyến khích các cá nhân nỗ lực làm việc tăng
thêm thu nhập.
Hầu hết thuế suất thuế thu nhập của các quốc gia đều là thuế suất tỷ lệ.
Vì nó khắc phục được nhược điểm của thuế suất cố đònh tuyệt đối là không phản
ánh chính xác tình hình kinh tế của đất nước cũng như hoạt động của các doanh
nghiệp, nhà nước sẽ bò thiệt nếu hoạt động kinh tế phát triển còn doanh nghiệp
sẽ bò thiệt nếu hoạt động của doanh nghiệp bò thu hẹp lại hay sản xuất, kinh
doanh không hiệu quả. Thuế suất tỷ lệ được tính bằng tỷ lệ phần trăm nên phản
11
ánh được tình hình hoạt động, lãi lỗ của doanh nghiệp cũng như phản ánh được
thu nhập của cá nhân, phù hợp với sự phát triển kinh tế, với nền kinh tế luôn
biến động.
Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp: Phần lớn các quốc gia sử dụng thuế
suất tỷ lệ cố đònh, tuy nhiên cũng có một số quốc gia áp dụng thuế suất tỷ lệ lũy
tiến ứng với các mức thu nhập của doanh nghiệp.
Đối với thuế thu nhập cá nhân: cả hai loại thuế suất tỷ lệ cố đònh và thuế
suất tỷ lệ luỹ tiến từng phần đều được áp dụng. Thông thường, thuế suất tỷ lệ
luỹ tiến thường được áp dụng đối với thu nhập thường xuyên và thuế suất tỷ lệ
cố đònh áp dụng đối với thu nhập không thường xuyên và áp dụng khi sử dụng
phương pháp đánh thuế khoán trên doanh thu.
Biểu thuế suất luỹ tiến của thuế thu nhập cá nhập thường có nhiều bậc và
tăng dần theo thu nhập. Thu nhập càng cao thì thuế suất càng tăng, số tiền thuế
phải đóng càng nhiều. Điều này là phù hợp vì ở mức thu nhập càng cao thì độ
hữu dụng càng giảm nên số thuế phải đóng góp nhiều hơn là hoàn toàn hợp lý,
đem lại hiệu quả về mặt phân phối lại thu nhập và công bằng xã hội.
Biểu thuế suất có thể gồm nhiều hoặc ít bậc thuế suất tuỳ thuộc vào sự
lựa chọn của mỗi quốc gia. Khi xây dựng biểu thuế cần xác đònh có bao nhiêu
bậc thuế là phù hợp.
- Chế độ miễn giảm thuế:
Các chế độ miễn giảm thuế trong thuế thu nhập thường được thể hiện
dưới hai dạng:
+ Chế độ miễn giảm nhằm khuyến khích đầu tư phát triển các lónh vực,
ngành nghề, các khu vực theo đònh hướng phát triển của nhà nước, hoặc thực
hiện các chính sách xã hội. Hình thức miễn giảm này thường áp dụng cho thuế
12
thu nhập doanh nghiệp. Khi nhà nước cần khuyến khích đầu tư vào lónh vực,
ngành nghề nào hay đònh hướng phát triển vùng kinh tế nào đó chẳng hạn thì có
những chế độ miễn giảm thuế nhằm thu hút vốn đầu tư cho các hoạt động sản
xuất, kinh doanh trong lónh vực đó, khu vực đó. Mặt dù chế độ miễn giảm thuế
có những nhược điểm là thường làm phức tạp công tác tính thuế, quản lý thu
nộp, dễ tạo ra hiện tượng các doanh nghiệp lợi dụng những điểm này tạo ra các
hình thức hoạt động khác nhau nhằm hưởng chế độ ưu đãi. Hơn nữa, chính chế
độä miễn giảm thuế lại tạo điều kiện cho các hiện tượng tham ô, hối lộ xảy ra để
có được các ưu đãi cũng như thiếu công bằng trong nghóa vụ đóng thuế. Tuy vậy,
chế độ miễn giảm thuế được rất nhiều quốc gia sử dụng nhằm điều chỉnh các
hoạt động kinh tế theo đònh hướng phát triển kinh tế của nhà nước cũng như giải
quyết các chính sách xã hội.
+ Chế độ miễn giảm cho chi phí thiết yếu đảm bảo cuộc sống và tái sản
xuất sức lao động, giảm trừ gia cảnh, đònh hướng phân bổ nguồn lực xã hội,… Đa
số các quốc gia khi đánh thuế thu nhập cá nhân đều quy đònh mức khởi điểm
chòu thuế, tại đó mức thu nhập đảm bảo chi phí thiết yếu cho cuộc sống của cá
nhân và gia đình họ, đồng thời đảm bảo được chi phí để tái sản xuất sức lao
động. Ngoài ra, nhiều quốc gia còn có mức giảm trừ gia cảnh, đó là khoản chi
phí để nuôi con, cha mẹ và những người tàn tật, không có khả năng lao động.
Thực sự, yếu tố giảm trừ gia cảnh là rất cần thiết đảm bảo cho công bằng xã hội,
vì có những người thu nhập rất cao nhưng họ lại có gánh nặng gia đình, có trách
nhiệm nuôi nhiều người không có khả năng lao động. Còn có những người thu
nhập không cao lắm nhưng họ chỉ cần lo cho chính mình vì những người thân đều
có thu nhập đảm bảo cuộc sống.
- Quản lý thu thuế:
13
Phương pháp, cách thức tổ chức thu thuế mang tính pháp lý thể hiện qua
các quy đònh về đăng ký thuế, thủ tục thu nộp thuế, xử lý vi phạm,… Đây là yếu
tố quan trọng góp phần quyết đònh số thuế thu được cho ngân sách nhà nước, thể
hiện công bằng xã hội. Một hệ thống thuế có các nội dung dù hoàn hảo đến đâu
nhưng hệ thống quản lý thu nộp không tốt cũng sẽ không mang lại được mục
tiêu của hệ thống thuế. Thuế thu nhập là loại thuế trực thu mà chính người chòu
thuế cũng là người nộp thuế. Do đó, bên cạnh việc nâng cao ý thức của người
dân về nghóa vụ đóng thuế cho nhà nước, hệ thống quản lý thu thuế cần hết sức
chặt chẽ mới có thể xác đònh được các khoản thu nhập chòu thuế phát sinh trong
thực tế.
1.3- Các sắc thuế thu nhập
Phần lớn các quốc gia đều sử dụng hai sắc thuế thu nhập: thuế thu nhập
doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Một số quốc gia áp dụng hai luật thuế
này có sự đối chiếu qua lại khi xác đònh cơ sở tính thuế, một số quốc gia thì áp
dụng tách biệt không có sự đối chiếu giữa chúng.
1.3.1- Thuế thu nhập doanh nghiệp
Thuế thu nhập doanh nghiệp là một loại thuế trực thu đánh vào lợi nhuận
của các doanh nghiệp. Sắc thuế này đã được nhiều quốc gia áp dụng từ rất lâu.
Ở Việt Nam, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành thay cho Luật thuế lợi
tức trước đây. Thuế thu nhập phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp hạch toán
doanh thu và chi phí, nên rất cần các quy đònh hết sức chặt chẽ của nhà nước.
Bên cạnh công cụ điều tiết nền kinh tế, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước,
thuế thu nhập doanh nghiệp còn góp phần tạo công bằng giữa các doanh nghiệp
về nghóa vụ đóng thuế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét