Chuyên đề cuối khoá GVHD: Th.s. Nguyễn Thị Hương Trà
+ Mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải phù hợp với chính
sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên
nhận ODA.
Thông thường, các nước cung cấp ODA đều có những chính sách và ưu
tiên riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả
năng về kỹ thuật và tư vấn công nghệ, kinh nghiệm quản lý… Đồng thời, đối
tượng ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo từng giai
đoạn cụ thể. Vì vậy, nắm được hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước, các
tổ chức cung cấp ODA là rất cần thiết.
* Thứ hai, vốn ODA mang tính chất ràng buộc.
Nguồn vốn ODA luôn chứa đựng cả tính ưu đãi cho nước tiếp nhận và
lợi ích của nước viện trợ. Vốn ODA mang yếu tố chính trị.
Các nước viện trợ nói chung đều không quên dành được lợi ích cho
mình, vừa gây ảnh hưởng chính trị, vừa thực hiện xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ
tư vấn vào nước tiếp nhận viện trợ. Nhìn chung, 22% viện trợ của Uỷ ban Hỗ
trợ Phát triển (Development Assistance Committee- DAC) phải được sử dụng
để mua hàng hoá và dịch vụ của các quốc gia viện trợ.
Kể từ khi ra đời đến nay, viện trợ luôn chứa đựng hai mục tiêu cùng tồn
tại song song. Mục tiêu thứ nhất là thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm
nghèo ở những nước đang phát triển. Mục tiêu thứ hai là tăng cường vị thế
chính trị của các nước tài trợ. Chính vì vậy, khi nhận viện trợ, các nước nhận
cần cân nhắc kỹ lưỡng những điều kiện của các nhà tài trợ, không vì mục đích
trước mắt mà đánh mất những quyền lợi lâu dài. Quan hệ hỗ trợ phát triển
chính thức phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi.
* Thứ ba, ODA là nguồn vốn có khả năng để lại gánh nặng nợ.
Khi tiếp nhận và sử dụng vốn ODA, do tính chất ưu đãi nên gánh nặng
nợ nần thường chưa xuất hiện. Một số nước do sử dụng chưa có hiệu quả
ODA, có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất thời, nhưng sau một thời gian lại lâm
vào vòng nợ nần do không có khả năng trả nợ. Sự phức tạp chính là ở chỗ vốn
SV:Bùi Thị Quỳnh - 5 - Lớp:
CQ43/08.01
Chuyên đề cuối khoá GVHD: Th.s. Nguyễn Thị Hương Trà
ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu
trong khi việc trả nợ lại chủ yếu dựa vào xuất khẩu để thu ngoại tệ. Do đó,
trong khi hoạch định chính sách sử dụng ODA phải phối hợp với các loại
nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu.
1.1.3. Vai trò của ODA đối với các nước đang phát triển.
* Thứ nhất, ODA là một nguồn vốn có vai trò quan trọng đối với các
nước đang phát triển.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, nhiều nước ở châu Á thiếu vốn để khôi
phục và phát triển nền kinh tế. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng đòi hỏi một lượng
vốn lớn, lãi suất thấp, thời gian thu hồi vốn lâu, nhiều rủi ro. Vì vậy các nước
gặp nhiều khó khăn trong việc thu hút vốn FDI vào lĩnh vực này. Nhiều nước
đã tranh thủ được nguồn vốn ODA từ các nước giàu.
Do tính chất ưu đãi, vốn ODA thường dành cho đầu tư vào cơ sở hạ
tầng kinh tế xã hội như đầu tư vào đường sá, cầu cảng, công trình điện, công
trình cấp thoát nước và các lĩnh vực giáo dục, y tế văn hoá và phát triển nguồn
nhân lực. Vào đầu những năm 1970, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội của các nước
Đông Nam Á sau khi giành độc lập còn rất nghèo nàn và lạc hậu. Các quốc
gia đã sớm nhận thấy vai trò quan trọng của việc phát triển các hoạt động giao
thông vận tải, thông tin liên lạc và bưu chính viễn thông… Nhiều công trình
hạ tầng kinh tế xã hội như sân bay, bến cảng, đường cao tốc, trường học, bệnh
viện, trung tâm nghiên cứu khoa học mang tầm cỡ quốc gia ở Thái Lan,
Singapore, Indonesia, Philippines đã được xây dựng bằng nguồn vốn ODA
của Nhật Bản, Hoa Kỳ, WB, ADB để hiện đại hoá hệ thống giao thông vận tải
của mình.
* Thứ hai, ODA giúp các nước đang phát triển tiếp thu những thành
tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực.
Những lợi ích quan trọng mà ODA mang lại cho các nước nhận tài trợ
là công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kỹ xảo chuyên môn và trình độ quản lý tiên
tiến. Các nhà tài trợ còn ưu tiên đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực vì họ tin
tưởng rằng việc phát triển của một quốc gia quan hệ mật thiết với việc phát
SV:Bùi Thị Quỳnh - 6 - Lớp:
CQ43/08.01
Chuyên đề cuối khoá GVHD: Th.s. Nguyễn Thị Hương Trà
triển nguồn nhân lực. Đây mới chính là những lợi ích căn bản, lâu dài đối với
nước nhận tài trợ. Chỉ có điều là những lợi ích này thật khó có thể lượng hoá
được.
* Thứ ba, ODA giúp các nước đang phát triển điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
Do dân số tăng nhanh, sản xuất tăng chậm và cung cách quản lý kinh
tế, tài chính kém hiệu quả, các nước đang phát triển đặc biệt là các nước Châu
Phi đang vấp phải nhiều khó khăn kinh tế như nợ nước ngoài và thâm hụt cán
cân thanh toán quốc tế ngày càng tăng. Để giải quyết vấn đề này, các quốc gia
đang cố gắng hoàn thiện cơ cấu kinh tế bằng cách phối hợp với WB, Quỹ tiền
tệ quốc tế (International Monetary Fund- IMF), các tổ chức quốc tế khác tiến
hành chính sách điều chỉnh cơ cấu. Chính sách này có xu hướng là chuyển
chính sách kinh tế Nhà nước đóng vai trò trung tâm sang chính sách khuyến
khích nền kinh tế phát triển theo định hướng phát triển khu vực kinh tế tư
nhân. Thế giới đã thừa nhận sự cần thiết của loại hình viện trợ này đối với các
nước đang phát triển.
* Thứ tư, ODA góp phần tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện
để mở rộng đầu tư phát triển trong nước ở các nước đang phát triển.
Các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào
một nước trước hết họ quan tâm tới khả năng sinh lợi của vốn đầu tư tại nước
đó. Họ luôn cảnh giác với những nguy cơ làm tăng các phí tổn của đầu tư.
Một cơ sở hạ tầng yếu kém như hệ thống giao thông chưa hoàn chỉnh,
phương tiện thông tin liên lạc thiếu thốn và lạc hậu, hệ thống cung cấp năng
lượng (điện, nhiên liệu) không đủ cho nhu cầu sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư
vì rằng những phí tổn mà họ phải trả cho việc sử dụng những tiện nghi hạ tầng
sẽ lên cao, chưa kể đến thiệt hại như hoạt động của nhà máy, xí nghiệp phải
dừng vì mất điện, công trình xây dựng bỏ dở vì không có nước…
Một hệ thống ngân hàng lạc hậu cũng là lý do làm cho các nhà đầu tư e
ngại, vì những chậm trễ, ách tắc trong hệ thống thanh toán và sự thiếu thốn
các dịch vụ ngân hàng hỗ trợ cho đầu tư sẽ làm phí tổn đầu tư gia tăng, dẫn tới
hiệu quả đầu tư giảm sút.
SV:Bùi Thị Quỳnh - 7 - Lớp:
CQ43/08.01
Chuyên đề cuối khoá GVHD: Th.s. Nguyễn Thị Hương Trà
Như vậy, việc đầu tư của Chính phủ vào việc nâng cấp, cải thiện và xây
dựng mới các cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng đều hết sức cần
thiết, nhằm làm cho môi trường đầu tư trở nên hấp dẫn hơn. Nhưng vốn đầu tư
cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng rất lớn, trong nhiều trường hợp, các nước
đang phát triển cần phải dựa vào nguồn vốn ODA để bổ sung cho vốn đầu tư
hạn hẹp từ ngân sách Nhà nước. Như vậy, việc sử dụng vốn ODA để đầu tư
cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong
nước tập trung đầu tư vào các chương trình sản xuất kinh doanh có khả năng
mang lại lợi nhuận.
1.1.4.Phân loại ODA.
Dựa vào các tiêu chí khác nhau lại có các cách phân loại ODA khác
nhau.
* Theo tính chất tài trợ, ODA bao gồm:
- Viện trợ không hoàn lại: là các khoản cho không, nước nhận viện
trợ không có nghĩa vụ hoàn trả lại.
- Viện trợ có hoàn lại: các khoản vay ưu đãi (tín dụng với điều kiện
“mềm”).
- Viện trợ hỗn hợp: gồm một phần cho không, phần còn lại thực
hiện theo hình thức tín dụng (có thể là tín dụng ưu đãi hoặc tín dụng thương
mại).
* Theo mục đích sử dụng, ODA bao gồm:
- Hỗ trợ cơ bản: là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và môi trường. Đây thường là những khoản
cho vay ưu đãi.
- Hỗ trợ kỹ thuật: là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức,
công nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu
tiền đầu tư, phát triển thể chế và nguồn nhân lực… loại hỗ trợ này chủ yếu là
viện trợ không hoàn lại.
* Theo điều kiện, ODA bao gồm:
SV:Bùi Thị Quỳnh - 8 - Lớp:
CQ43/08.01
Chuyên đề cuối khoá GVHD: Th.s. Nguyễn Thị Hương Trà
- ODA không ràng buộc nước nhận: việc sử dụng nguồn tài trợ
không bị ràng buộc bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng nào.
- ODA có ràng buộc nước nhận:
+ Bởi nguồn sử dụng: việc mua sắm hàng hoá, trang thiết bị hay dịch
vụ bằng nguồn vốn ODA chỉ giới hạn cho một số công ty do nước tài trợ sở
hữu hoặc kiểm soát (đối với viện trợ song phương), hoặc các công ty của các
nước thành viên (đối với viện trợ đa phương).
+ Bởi mục đích sử dụng: chỉ được sử dụng nguồn vốn ODA cho một số
lĩnh vực nhất định hoặc một số dự án cụ thể.
- ODA có thể ràng buộc một phần: một phần chịu ràng buộc, phần
còn lại không phải chịu bất kỳ ràng buộc nào.
* Theo đối tượng sử dụng, ODA được chia thành:
- Hỗ trợ dự án: là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự
án cụ thể. Nó có thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là cho không
hoặc cho vay ưu đãi.
- Hỗ trợ phi dự án:
+ Hỗ trợ cán cân thanh toán: thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp
(chuyển giao tiền tệ) hoặc hỗ trợ hàng hoá, hỗ trợ qua nhập khẩu (ngoại tệ
hoặc hàng hoá được chuyển qua hình thức này có thể được sử dụng để hỗ trợ
ngân sách).
+ Hỗ trợ trả nợ: giúp thanh toán các khoản nợ quốc tế đến hạn.
+ Viện trợ chương trình: là khoản ODA dành cho một mục đích tổng
quát với thời gian nhất định mà không phải xác định một cách chính xác nó sẽ
được sử dụng như thế nào?
* Theo nhà cung cấp, ODA được chia thành:
- ODA song phương: là ODA của một Chính phủ tài trợ trực tiếp
cho một Chính phủ khác.
- ODA đa phương: là ODA của nhiều Chính phủ cùng đồng thời tài
trợ, thường được thực hiện thông qua các tổ chức quốc tế (WB, IMF,
ADB…).
SV:Bùi Thị Quỳnh - 9 - Lớp:
CQ43/08.01
Chuyên đề cuối khoá GVHD: Th.s. Nguyễn Thị Hương Trà
- ODA của các tổ chức phi Chính phủ (NGO).
1.2.Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) và nguồn vốn ODA của
ADB
1.2.1.Giới thiệu về ADB.
ADB là tên viết tắt tiếng Anh của Ngân hàng Phát triển Châu Á ( Asian
Development Bank ). Đầu thập kỉ 60 của thế kỉ XX, các nước Châu Á đều
thuộc hàng ngũ những nước nông nghiệp, trình độ phát triển thấp, thu nhập
của dân cư thấp nhất thế giới.Các nước đều có nguyện vọng tập hợp nhau lại,
hỗ trợ nhau cùng phát triển kinh tế, nâng cao đời sống dân cư, xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ. Trong trào lưu thành lập các ngân hàng khu vực, trên
cơ sở đềxuất từ 1963 của Uỷ ban kinh tế – xã hội Châu Á– Thái Bình Dương
họp tại Manila, Philippin năm 1965 đã kí kết Điều lệ thành lập Ngân hàng
Phát triển Châu Á. Ngân hàng chính thức đi vào hoạt động ngày 19/12/1966
với 43 thành viên sáng lập có Hội sở tại Manila và vốn điều lệ 956 triệu USD.
1.2.1.1 Mục tiêu hoạt động của ADB
*Mục tiêu hoạt động của ADB bao gồm:
- Hỗ trợ cho việc chuẩn bị và phối hợp các chương trình phát triển
quốc gia của các nước trong khu vực
- Viện trợ kĩ thuật cho việc xây dựng và thực hiện các dự án phát
triển cụ thể của các nước trong khu vực
- Cho vay dài hạn cho các dự án phát triển của các quốc gia trong
khu vực
- Thúc đẩy đầu tư Chính phủ và đầu tư tư nhân
- Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác trong phát triển kinh tế các
nước trong khu vực
- Cung cấp các dịch vụ nghiên cứu và quản trị cho các nước trong
khu vực
1.2.1.2. Nguồn vốn hoạt động của ADB
* Nguồn vốn thông thường (OCR) : Gồm vốn điều lệ, vốn huy động và
vốn dự trữ. Được dùng để cho vay thông thường ( ít ưu đãi)
SV:Bùi Thị Quỳnh - 10 - Lớp:
CQ43/08.01
Chuyên đề cuối khoá GVHD: Th.s. Nguyễn Thị Hương Trà
- Vốn điều lệ: Được các nước thành viên đóng góp với mức tương
đương 0,5% GDP bình quân của 5 năm liên tục tính đến thời điểm gia nhập.
Theo qui chế, tối thiểu 60% vốn điều lệ do các nước trong khu vực nắm giữ.
Hiện nay, tỉ lệ này là 64,5% trong khu vực và 35,5% ngoài khu vực
- Vốn huy động: Nguồn vốn chủ yếu trong hoạt động là vốn huy động
trên thị trường tài chính quốc tế thông qua phát hành trái phiếu. ADB tương
đối thận trọng trong chính sách vay nợ. Tỉ lệ vay nợ trên vốn tự có là 1:1,
nghĩa là các khoản vay không vượt quá vốn cổ phần ( cả phần đã nộp và phần
phải nộp) và vốn dự trữ. Trái phiếu của ADB được xếp hạng AAA.
- Vốn dự trữ: Hình thành từ lợi nhuận ròng của Ngân hàng. Hiện nay
đạt gần 4 tỉ USD
* Nguồn vốn đặc biệt (ADF):
Hình thành do sự đóng góp của một số nước phát triển trong và ngoài
châu lục để tạo lập các Quỹ đặc biệt nhằm tài trợ cho các nước nghèo trong
khu vực với những điều kiện ưu đãi so với những khoản tài trợ từ nguồn vốn
thông thường. - Quỹ phát triển châu Á : Thành lập từ năm 1974 với số vốn là
525 triệu USD, và được thương lượng nâng vốn định kì 4 năm một lần, nay
tăng lên 2,45 tỉ USD. Lãi suất ưu đãi 1%, thời hạn vay nợ 40 năm. Thường
cho vay với Bangladesh (30%), Nepan, Srilanca, Myanmar,…
- Quỹ đặc biệt hỗ trợ kĩ thuật: Thành lập năm 1976. Ngoài vốn góp của
các thành viên giàu còn có khoản trích hàng năm từ Quỹ phát triển châu Á.
Hiện nay đã đạt hơn 220 triệu USD
- Quỹ Nhật Bản: Thành lập năm 1988 với số vốn ban đầu là 35,8 triệu
USD, hiện nay đạt trên 200 triệu USD
1.2.1.3. Hoạt động tài trợ của ADB
Để nâng cao hiệu quả các khoản tài trợ cho các nước thành viên châu
lục, ABD có nhiều điều chỉnh trong chính sách trong những năm gần đây. Cụ
thể:
- Vừa kiên trì chính sách tài trợ nhằm vào khu vực kinh tế công,
trước áp lực của Mỹ và một số nước Tây Âu, ADB đã chú ý tài trợ khu vực
SV:Bùi Thị Quỳnh - 11 - Lớp:
CQ43/08.01
Chuyên đề cuối khoá GVHD: Th.s. Nguyễn Thị Hương Trà
doanh nghiệp tư nhân với số tiền hàng tỉ USD, chiếm khoảng 10% số tài trợ
của ADB
- Bên cạnh chú ý tài trợ cho các dự án năng lượng (30%), cơ sở hạ
tầng giao thông, vận tải, phát triển nông nghiệp, ADB đã chú ý tài trợ các dự
án phát triển đô thị, giáo dục, y tế, xoá đói, giảm nghèo, tăng cường vai trò
phụ nữ, bảo vệ môi trường…(khoảng 14 – 18% số tiền tài trợ hàng năm).
- Trong thời gian gần đây, ngoài tài trợ trực tiếp cho các dự án lớn,
đã áp dụng phương pháp tài trợ gián tiếp qua các định chế tài trợ của các nước
thành viên với các dự án vừa và nhỏ với số vốn nhiều tỉ USD
- Đối với các dự án nhỏ, ADB đã thực hiện tài trợ theo ngành. Tức
tài trợ một khoản tín dụng duy nhất cho một nhóm các dự án nhỏ trong một
ngành, tiểu ngành theo khu vực địa lí nhất định hoặc nằm trong một giai đoạn
nào đó trong một chương trình đầu tư nhất định ( chiếm khoảng 11% tổng vốn
tài trợ của ADB hàng năm).
- ADB cũng có vai trò lớn trong sự phát triển của thị trường vốn
châu Á. Từ năm 1991, sau khi hoàn thành công trái phiếu tại 3 thị trường Đài
Loan, Singapore, Hong Kong với mức vốn 300 triệu USD thì các đợt phát
hành trái phiếu mang tên “ Dragon” của ADB liên tục được thực hiện. ADB
chú ý phát triển thị trường vốn thứ cấp và đặt ra yêu cầu thành lập ra mạng
thanh toán bù trừ giữa các thị trường vốn châu Á mà hiện nay cón khá rời rạc
- Trong hoạt động tài trợ cần phải nói tới hiệu qủa cao của các
khoản tài trợ đặc biệt của ADB giúp các nước thành viên đối phó với các biến
động về chính trị, thiên tai, khủng hoảng tài chính – tiền tệ trong khu vực và
trên thế giới.
1.2.2. Nguồn vốn ODA của ADB
Các khoản tài trợ ODA của ADB được hình thành từ chính nguồn vốn
đặc biệt (ADF). Nói cách khác, ADF đây thực chất là nguồn vốn hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA) của ADB
Từ khi bắt đầu hoạt động năm 1993, các hoạt động của ADB đã được
mở rộng cả về khối lượng và quy mô. Đến cuối năm 2008, ADB đã cung cấp
SV:Bùi Thị Quỳnh - 12 - Lớp:
CQ43/08.01
Chuyên đề cuối khoá GVHD: Th.s. Nguyễn Thị Hương Trà
49 khoản vay ODA cho khu vực công ( đạt 3,9 tỉ USD ); 178 dự án hỗ ODA
trợ kĩ thuật ( đạt 120 triệu USD ); và 7 dự án ( đạt 337 triệu USD ) từ các hoạt
động khu vực tư nhân của mình. ADB cũng đã tài trợ nhiều dự án ODA tại
khu vực Tiểu vùng Mêkông mở rộng bao gồm cả Việt Nam. Việt Nam là một
trong số các nước nhận hỗ trợ ODA nhiều nhất.
Nguồn vốn ODA của ADB tập trung vào phục hồi và cải cách kinh tế.
Từ năm 2002 ( thuộc Chiến lược và Chương trình Quốc gia CSP trước ), ADB
đã hỗ trợ cho các nỗ lực Chính phủ nhằm giảm nghèo với trọng tâm:
- Tăng trưởng bền vững
- Phát triển xã hội đồng đều
- Quản trị điều hành tốt
- Và đặt trọng tâm về mặt địa lí vào các khu vực miền trung
Mục tiêu của việc hỗ trợ ODA của ADB là giúp các Chính phủ giảm tỉ
lệ nghèo xuống còn 10 – 11% vào năm 2010. ADB dự định thực hiện mục tiêu
này, bằng cách hỗ trợ các nỗ lực của các Chính phủ trong việc triển khai Kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội, với trọng tâm đặc biệt vào thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế vì người nghèo, dựa trên các hoạt động kinh doanh. Duy trì
được tăng trưởng mạnh mẽ bằng các hoạt động kinh doanh cực kì quan trọng
trong việc thúc đẩy các cơ hội tạo việc làm, tăng thu nhập.
Nguồn vốn ODA của ADB đựoc ưu tiên dành cho các mục
tiêu sau:
- Phát triển cơ sở hạ tầng
- Cải thiện môi trường thuận lợi cho kinh doanh
- Củng cố trung gian tài chính
- Đáp ứng nhu cầu ngày một tăng về nguồn nhân lực có kĩ năng
- Giảm nghèo và phát triển xã hội
- Hệ thống y tế và kiểm soát dịch bệnh
- Quản lí môi trường
- Phát triển đô thị và môi trường
- Các hoạt động tư nhân
SV:Bùi Thị Quỳnh - 13 - Lớp:
CQ43/08.01
Chuyên đề cuối khoá GVHD: Th.s. Nguyễn Thị Hương Trà
ADB ưu tiên hỗ trợ phát triển chính thức cho các lĩnh vực sau:
- Phát triển cơ sở hạ tầng: ADB đóng vai trò chủ đạo trong phát triển cơ
sở hạ tầng của Việt Nam. Sự hỗ trợ của ADB trong việc giảm bớt các vướng
mắc cơ sở hạ tầng sẽ tập trung vào vận tải và năng lượng
- Các nhu cầu cơ bản của con người, ủng hộ cung cấp dịch vụ y tế, giáo
dục cơ sở, nước sạch, vệ sinh, nhà ở
- Phát triển khu vực tư nhân: củng cố môi trường, khuyến khích các
hoạt động tư nhân, hỗ trợ trực tiếp cho phát triển khu vực tư nhân nhằm phát
triển kinh tế bền vững và đồng đều
- Môi trường: giúp các nước đang phát triển bảo vệ môi trường, đóng
góp vào việc giải quyết các vấn đề môi trường chung của khu vực và toàn cầu
Nhìn chung, cũng như hầu hết các nhà tài trợ ODA, ADB cũng có
những điều kiện đối với các nước nhận tài trợ, nhất là trong lĩnh vực mua sắm
hàng hoá. Như:
- Chỉ dùng vốn vay để mua sắm hàng hoá (phục vụ sản xuất) được cung
cấp hoặc sản xuất tại các nước thành viên của Ngân hàng, trừ khi Hội đồng
quản trị có quyết định khác đi
- Tạo cơ hội cho tất cả các nước thành viên cung cấp hàng hoá, dịch vụ
do Ngân hàng tài trợ.
SV:Bùi Thị Quỳnh - 14 - Lớp:
CQ43/08.01
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét