Khoá luận tốt nghiệp
Biểu 19: Tăng trưởng tín dụng (2001-2007).
Biểu 20: Tăng trưởng tín dụng (2000-2008).
Biểu 21: Tăng trưởng tín dụng 2008.
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
5
Khoá luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHỦNG HOẢNG
TÀI CHÍNH VÀ TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH TỚI HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG
1.1. Lý luận chung về khủng hoảng tài chính
1.1.1. Khái niệm khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính là vấn đề chung trong lịch sử phát triển kinh tế của
hầu hết các quốc gia trên thế giới. Việc nghiên cứu về khủng hoảng tài chính
là thiết yếu vì chúng là nguyên nhân dẫn đến những cuộc suy thoái kinh tế
nghiêm trọng trong quá khứ và có khả năng xảy ra trong tương lai. Trên thế
giới, không có một khái niệm qui chuẩn nào về khủng hoảng tài chính, tuy
nhiên, qua mỗi thời kì lịch sử, các nhà kinh tế học lại đưa ra những khái niệm
và lập luận khác nhau.
Trong giai đoạn đầu, khủng hoảng tài chính được hiểu là kết quả của thâm
hụt ngân sách, dẫn tới nhu cầu phát hành tiền để bù đắp thâm hụt của Chính
phủ. Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định và dự trữ ngoại hối quốc
gia sụt giảm dưới mức cho phép. Obstfelt
1
(1994) lập luận rằng khủng hoảng
tài chính xuất phát từ mâu thuẫn giữa chế độ tỷ giá cố định và mong muốn
theo đuổi chính sách tiền tệ mở rộng của chính phủ.
Theo học thuyết kinh tế của Hyman Minsky
2
(1919-1996), khủng hoảng tài
chính là kết quả của sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế
trong việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình. Ví dụ như :
các NHTM không hoàn trả được các khoản tiền gửi của người gửi tiền; các
khách hàng vay vốn không thể hoàn trả đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng.
Nguyên nhân của việc không thực hiện được các nghĩa vụ thanh toán là do
gặp phải vấn đề thanh khoản, khả năng thanh toán hoặc do cố tình chiếm
1
Maurice Obstfelt – Giáo sư kinh tế học người Mỹ của trường đại học Berkeley, California. "Financial
Instability, Reserves, and Central Bank Swap Lines in the Panic of 2008"
2
Hyman Minsky - Giáo sư kinh tế học người Mỹ. “Financial crisis : Systemic or Idiosyncratic – 1991”
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
6
Khoá luận tốt nghiệp
dụng vốn vì điều này có thể có lợi ở khía cạnh nào đó. Tình trạng mất khả
năng thanh toán bắt nguồn từ các vụ phá sản, kinh doanh thua lỗ của các
doanh nghiệp hoặc các vấn đề về chi tiêu của Chính phủ. Sự mất khả năng
thanh toán thường có tính dây chuyền ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế.
Mishkin
3
(2000) lại cho rằng sự bất ổn tài chính có thể dẫn tới 1 cuộc
khủng hoảng tài chính khi hệ thống tài chính đối mặt với vấn đề thông tin
không đối xứng dẫn tới rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch. Khi đó, hệ
thống tài chính không còn đủ khả năng thực hiện chức năng vốn có của nó là
kênh phân phối các nguồn lực tài chính.
Một số nhà kinh tế khác thì đưa ra quan điểm: có một sự tương quan giữa
nỗ lực nhằm tự do hoá các thị trường tài chính và số lượng các cuộc khủng
hoảng tài chính. Khủng hoảng tài chính thường đi kèm với những nỗ lực
nhằm tự do hoá thị trường tài chính. Vậy tự do hoá tài chính có nhất thiết dẫn
đến khủng hoảng tài chính và việc xảy ra các cuộc khủng hoảng tài chính có
thể là một lý do phản đối việc bãi bỏ các quy định và tự do hoá tài khoản vốn.
Mặc dù có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khủng hoảng tài chính, song
để hiểu được bản chất của khái niệm này, trước hết cần hiểu một số khái niệm
liên quan sau:
Tài chính được hiểu là quá trình phân phối các nguồn tài chính nhằm đáp
ứng nhu cầu của các chủ thể kinh tế. Hoạt động tài chính luôn gắn liền với sự
vận động độc lập tương đối của các luồng giá trị dưới hình thái tiền tệ thông
qua việc hình thành và sử dụng các quĩ tiền tệ
4
. Tài chính có 3 chức năng cơ
bản là : chức năng huy động, chức năng phân phối và chức năng giám sát.
Thứ nhất, chức năng huy động là chức năng tạo lập các nguồn tài chính, khai
thác các nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu vốn phát triển của nền kinh tế. Việc
3
Frederic S. Mishkin. Financial stability and the macro economy. NXB: Economics Department of the
Central Bank of Iceland. 2000. http://www.sedlabanki.is
4
Các quĩ tiền tệ là cơ sở hình thành và là đối tượng của các hoạt động tài chính. Trong thực tế, các nguồn tài
chính có thể được gọi với các tên như : vốn tiền tệ, tiền vốn hay trong từng trường hợp cụ thể thì bằng các
tên gọi riêng như : vốn huy động trong dân, vốn tín dụng, vốn ngân sách…
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
7
Khoá luận tốt nghiệp
huy động vốn phải tuân thủ cơ chế thị trường, quan hệ cung cầu và giá cả của
vốn. Thứ hai, chức năng phân phối là chức năng phân phối tổng sản phẩm xã
hội dưới hình thức giá trị. Thông qua chức năng này, các quĩ tiền tệ tập trung
và không tập trung được hình thành và sử dụng theo những mục đích nhất
định. Phân phối thông qua tài chính gồm: phân phối lần đầu và phân phối lại.
Tuy nhiên, thực tế phân phối được chia thành 3 nhóm: phân phối có hoàn lại
(ví dụ: tín dụng); phân phối không hoàn lại (ví dụ: ngân sách nhà nước); phân
phối hoàn lại có điều kiện (ví dụ: bảo hiểm). Thứ ba, chức năng giám sát là
chức năng kiểm tra quá trình vận động của các nguồn tài chính để tạo lập và
sử dụng các quĩ tiền tệ.
Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, chuyển nhượng
quyền sử dụng các khoản vốn ngắn hạn và dài hạn thông qua các công cụ tài
chính nhất định. Thị trường tài chính góp phần quan trọng trong việc điều hòa
vốn từ nơi thừa đến nới thiếu vốn, giúp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong
nền kinh tế. Với vai trò như vậy, ổn định thị trường tài chính là mục tiêu quan
trọng đối với nền kinh tế các quốc gia.
Khủng hoảng là tình trạng rối loạn, sự mất cân bằng, bất ổn định, do nhiều
mâu thuẫn nghiêm trọng chưa giải quyết được.
Vậy, “khủng hoảng tài chính là tình trạng mất cân bằng, rối loạn trầm
trọng của quá trình huy động và phân phối các nguồn tài chính nhằm đáp
ứng nhu cầu của các chủ thể kinh tế trong xã hội. Hay nói cách khác,
khủng hoảng tài chính là sự đổ vỡ trầm trọng các thị trường tài chính được
đặc trưng bởi sự sụt giảm mạnh mẽ về giá trị tài sản và sự đổ vỡ của các tổ
chức tài chính, phi tài chính kéo theo sự suy thoái nặng nề”.
1.1.2. Lịch sử một số cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới
1.1.2.1. Đại khủng hoảng tài chính Mỹ (1929-1933)
Cuộc Đại khủng hoảng tài chính Mỹ diễn ra từ năm 1929 với sự sụt giảm
kỉ lục của chỉ số Dow Jones (25% chỉ trong hai phiên cuối tháng 10/1929),
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
8
Khoá luận tốt nghiệp
chấm dứt chuỗi ngày tăng trưởng mạnh mẽ trước đó và mở đầu thời kỳ suy
thoái kéo dài trên phố Wall.
Ngày 29/10/2009 được gọi là ngày thứ ba đen tối đến với phố Wall khi chỉ
số Dow Jones sụt 25% sau hai phiên xuống dốc. Nhà đầu tư bán tháo cổ
phiếu, giao dịch đạt mức kỷ lục mà phải mất 40 năm thị trường mới có thể
phá vỡ. Khi cuộc khủng hoảng chạm đáy vào tháng 7/1932, Dow Jones sụt
giảm 89%. Hơn 22 năm sau, thị trường mới tìm lại đỉnh cao xác lập hồi 1929,
trước khi cơn bão giảm giá xảy ra.
Biểu 1 : Diễn biến chỉ số Dow Jones từ 1928 đến 1934.
Nguồn : Dow Jones & Company
Trong một thập kỷ, giá cổ phiếu tăng tới bốn lần, với sự dẫn đầu của các
mã thuộc lĩnh vực công nghệ mới như radio, cho thấy rõ nguy cơ bong bóng.
Trong khi các quy định liên quan tới giao dịch nội gián rất thiếu và lỏng lẻo,
nhà đầu tư dễ dàng mua gom cổ phiếu và tăng quyền kiểm soát trong công ty.
Thị trường trở nên hoảng loạn khi một loạt các biện pháp quản lý được đưa
ra, trong đó có những sắc thuế mới. NHTW duy trì lãi suất thấp trong nhiều
năm liền để hỗ trợ đồng bảng Anh (tại thời điểm đó được coi như bản vị vàng
trong rổ tiền tệ quốc tế).
Phố Wall sụp đổ khiến toàn bộ nền kinh tế Mỹ bước vào cơn suy thoái
trầm trọng, rồi lan rộng sang toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Mỹ sụt
giảm một phần ba, tỷ lệ thất nghiệp leo lên mức 25% trong khi hàng loạt công
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
9
Khoá luận tốt nghiệp
nhân chỉ được làm việc vài giờ mỗi ngày. Hệ thống ngân hàng bị đặt trong
vòng kiểm soát gắt gao. Toàn bộ ngân hàng bị đóng cửa trong 2 tuần, chờ các
điều tra viên liên bang thanh tra, giám sát.
Không được trợ cấp thất nghiệp, không được chính phủ trợ giúp đỡ, người
lao động đối mặt với vấn đề cắt giảm thu nhập và thất nghiệp. Hệ lụy tất yếu
xảy ra là tiêu dùng của dân chúng suy giảm, kéo theo sự sụp đổ của nhiều nhà
máy, công xưởng.
Biểu 2 : Tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ trong giai đoạn Đại khủng hoảng
Nguồn : Dow Jones & Company
Chính sách thắt chặt tiền tệ, tài khóa đúng vào lúc cuộc khủng hoảng lan
rộng càng làm cho nền kinh tế suy thoái trầm trọng hơn. Thương mại quốc tế
cũng đình đốn vì Mỹ xóa bỏ chế độ bản vị vàng (coi vàng là thước đo trong
thanh toán) và dựng hàng rào thuế quan nhằm ngăn đồ nhập ngoại.
Trong giai đoạn đầu, các nhà chức trách cố lấy lại niềm tin trên thị
trường bằng những bài phát biểu, cam kết. Thậm chí Tổng thống Herbert
Hoover
5
trấn an dân chúng rằng nền kinh tế vẫn vững vàng. Mọi biến chuyển
chỉ bắt đầu khi ông Franklin D Roosevelt
6
trúng cử Tổng thống vào năm
1932. Chính phủ Mỹ bắt đầu chính sách trợ cấp thất nghiệp, ổn định thị
5
Tổng thống thứ 31 của Mỹ.
6
Tổng thống thứ 32 của Mỹ.
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
10
Khoá luận tốt nghiệp
trường bằng cách hạn chế sản xuất, khuyến khích hoạt động công đoàn, và
xây dựng hệ thống hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp.
Nhìn về thời kì Đại suy thoái, ngày nay người ta có thể thấy một số bài học
còn hữu ích cho đợt khủng hoảng đang diễn ra. Thị trường tài chính, ngân
hàng và toàn bộ nền kinh tế liên thông với nhau. Vấn đề phát sinh ở một lĩnh
vực, nếu không được giải quyết triệt để sẽ lan sang lĩnh vực khác. Hành động
can thiệp tích cực và khẩn trương của chính phủ là rất cần thiết để xua tan
những áp lực đối với nền kinh tế trong bối cảnh khủng hoảng. Phản ứng quá
chậm chạp và xuất phát từ tư duy sai lầm của chính quyền cũng như ngân
hàng Trung ương những năm 1930 khiến suy thoái nghiêm trọng hơn.
1.1.2.2. Bong bóng và sự sụp đổ thị trường tài chính Mỹ 1987
Ủy Ban Chứng Khoán Mỹ (SEC) được thành lập năm 1933-1934 sau cuộc
Đại khủng hoảng tài chính Mỹ nhằm ngăn chặn những khả năng sụp đổ thị
trường và những hành vi lừa đảo trên thị trường chứng khoán. SEC hoạt động
hiệu quả, lấy lại lòng tin nhà đầu tư khiến họ bắt đầu quay trở lại với thị
trường vào những năm 60.
Vào những năm đầu thập kỷ 60 và 70, nhà đầu tư ít quan tâm đến giá trị
doanh nghiệp mà họ quan tâm đến hình ảnh, sự tiếp cận của doanh nghiệp
đến công chúng, đến những ý kiến không chính thức về doanh nghiệp (ví dụ
như những mẩu quảng cáo mô tả ở mức thái quá về hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp).
Thập kỷ 80 là giai đoạn mà những hoạt động tài chính diễn ra cực kỳ sôi
động, đặc biệt là sự hình thành của nhiều tập đoàn lớn, hoạt động sáp nhập,
thâu tóm. Thâu tóm và sáp nhập diễn ra ở khắp mọi nơi, ở mọi cấp độ, nhiều
thương vụ được áp dụng kĩ thuật “mua lại dựa trên vay nợ” thông qua phát
hành những loại trái phiếu chất lượng thấp cho nhà đầu tư. Áp dụng cách thức
phát triển mới, tăng trưởng của những doanh nghiệp Mỹ sau sáp nhập được
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
11
Khoá luận tốt nghiệp
tính theo cấp số nhân chứ không còn đơn giản là cộng hai doanh nghiệp hợp
nhất với nhau nữa.
SEC không còn đủ khả năng để hạn chế những tập đoàn và những đợt phát
hành ra công chúng mờ ám, thị trường tiếp tục tăng trưởng liên tục trong suốt
thập niên 80. Vào đầu năm 1987, SEC đẩy mạnh hoạt động điều tra các giao
dịch nội gián. Ở vào thời điểm mà hầu hết nhà đầu tư bắt đầu quan tâm đến
khả năng Phố Wall cần phải xem xét lại chính sự tăng trưởng hiện tại của nó,
thì hoạt động điều tra của SEC đã tạo nên không khí lo lắng đối với nhà đầu
tư. Nhiều người quyết định rời khỏi “cuộc chơi mờ ám” với cổ phiếu để
chuyển sang những hoạt động đầu tư ổn định hơn, như trái phiếu.
Ngày thứ hai (19/10/1987) - ngày thứ hai đen tối - đã xảy ra một cuộc rút
lui đồng loạt ra khỏi thị trường cổ phiếu, tác động mạnh đến hệ thống quản lý
giao dịch của NYSE (Sở giao dịch chứng khoán New York). Hệ thống này tự
đặt các ngưỡng dừng lỗ (stop loss) cho cổ phiếu và chuyển lệnh tới hệ thống
DOT
7
của NYSE. Lượng bán quá lớn được chuyển sang tức thì đã làm quá tải
hệ thống máy in của DOT, làm trễ toàn hệ thống và nhà đầu tư, ở mọi cấp độ
(cá nhân hay tổ chức) rơi vào tình trạng mất thông tin.
Khủng hoảng lan truyền theo đám đông và nhà đầu tư bắt đầu đổ ra bán cổ
phiếu không cần biết sẽ lỗ bao nhiêu hay liệu lệnh của họ có thể được thực
hiện sớm hay muộn trong khi giá đang rơi thẳng đứng. Chỉ số Dow Jones tụt
508,32 điểm (22,6%) và 500 tỉ USD biến mất. Thị trường ở các quốc gia khác
trên toàn thế giới cũng sụp đổ theo.
Sau khi Alan Greenspan lên làm Chủ tịch của Cục dự trữ Liên bang Mỹ
(FED) đã đóng góp rất lớn trong việc chèo lái nền kinh tế tránh khỏi một cuộc
khủng hoảng nữa bằng cách hỗ trợ để các ngân hàng thương mại và ngân
hàng đầu tư không bị vỡ nợ.
7
DOT - Designated Order Turnaround - là hệ thống máy tính điện tử nhằm hỗ trợ hiệu quả giao dịch lệnh
bằng cách chuyển các lệnh với chứng khoán niêm yết trực tiếp, không đi qua những nhà môi giới, tới các
chuyên gia trên sàn của NYSE. Hệ thống này thường được áp dụng với những lệnh có quy mô nhỏ, lệnh giới
hạn và lệnh giao dịch theo chương trình.
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
12
Khoá luận tốt nghiệp
1.1.2.3. Khủng hoảng Ngân hàng Nhật bản những năm 90
Trong hơn một thập kỉ kể từ năm 1990, ngành tài chính ngân hàng Nhật
Bản đã phải đương đầu với những khoản nợ khó đòi và tốc độ giảm phát liên
tục. Các ngân hàng đóng một vai trò chủ đạo trong nền kinh tế Nhật Bản kể
từ sau chiến tranh 1945 cho tới năm 1973 do toàn bộ nguồn vốn tiết kiệm của
dân chúng đều đổ vào ngân hàng trong thời gian này.
Vào những năm 1970 cải cách trong khu vực tài chính được tiến hành. Một
trong những cải cách đó là thay đổi các qui trình trên thị trường tài chính nhờ
đó mà việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu không còn bị ngăn cấm như trước
nữa. Khi thị trường tài chính mở cửa, các doanh nghiệp lớn ở Nhật đều tìm
đến những công cụ tài chính rẻ hơn như cổ phiếu, trái phiếu. Việc làm này
khiến các doanh nghiệp không còn phụ thuộc nhiều vào các ngân hàng để tìm
kiếm vốn đầu tư như trước nữa. Trước đó, để phát hành trái phiếu, các công
ty này phải xin phép Ủy ban phát hành chứng khoán (vì các đạo luật liên quan
đến phát hành trái phiếu doanh nghiệp vô cùng khó khăn và phức tạp, mỗi
lượng trái phiếu phát hành phải có thế chấp). Đến năm 1975, thị trường
chứng khoán mở rộng theo hướng tự do hóa nên việc thế chấp cũng trở nên
dễ dàng hơn khiến các hoạt động trên thị trường này tăng nhanh. Vai trò của
các ngân hàng tiếp tục giảm mạnh.
Giữa năm 1980, mọi rào cản trên thị trường tài chính bị phá bỏ. Sự thay
đổi trong hệ thống tài chính đã tạo ra một thị trường cho phép doanh nghiệp
cũng như cá nhân có nhiều lựa chọn sử dụng vốn hơn. Trong khi đó, các ngân
hàng vẫn đi theo lối mòn với một nghiệp vụ duy nhất là nhận tiền gửi và cho
vay. Khi số lượng các doanh nghiệp sản xuất lớn tìm đến ngân hàng ngày
càng giảm thì các ngân hàng này phải chuyển đối tượng cho vay sang cá nhân
và các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản - chủ yếu là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
13
Khoá luận tốt nghiệp
Tăng trưởng cao và lạm phát xấp xỉ bằng 0 trong nửa cuối những năm
1980 đã đẩy giá bất động sản lên tới mức không thể dự đoán được. Áp lực
cạnh tranh trong và ngoài nước khiến các ngân hàng thi nhau cho vay để
chiếm lĩnh thị trường. Thế chấp cho các khoản vay là những món bất động
sản trị giá lớn, vượt xa cả giá trị thực của chúng. Cuối những năm 1980, các
ngân hàng Nhật và các tập đoàn Nhật đã vượt ra ngoài lãnh thổ quốc gia sang
Đông Á, châu Âu và châu Mỹ, nhưng tại các thị trường này tình trạng cho
vay cũng không khác tại Nhật Bản.
Bong bóng bất động sản cuối cùng cũng vỡ vào năm 1989 khi chỉ số
Nikkei 225 đạt đỉnh điểm 38915 rồi sụt giảm mạnh. Giá bất động sản theo đó
cũng giảm thảm hại. Các khoản thế chấp ngân hàng lúc này trở nên vô nghĩa
để lại trong các ngân hàng là các khoản nợ khó đòi. Các ngân hàng Nhật đối
mặt với một cuộc khủng hoảng trầm trọng.
Diễn biến
Thực chất, nguy cơ khởi phát của cuộc khủng hoảng đã bắt đầu từ cuối
những năm 1970 đến giữa những năm 1980 khi các bong bóng bất động sản
hình thành. Sau đó, từ giữa những năm 1990 đến đầu năm 2000 bong bóng vỡ
khiến Nhật Bản lâm vào cuộc khủng hoảng hệ thống NHTM nghiêm trọng.
Có thể chia làm 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1, từ đầu những năm 1990 đến năm 1994, đây là giai đoạn các
nhà điều hành ngân hàng bắt đầu nhận ra mức độ nghiêm trọng của các khoản
nợ xấu. Hai ngân hàng đầu tiên buộc phải đóng cửa là ngân hàng Toho-Sogo
và Toyo-Shinkin (1992). Công ty mua bán nợ CCPC được thành lập năm
1993 để cứu các ngân hàng này. Năm 1993, các ngân hàng bắt đầu công khai
các khoản nợ xấu của mình.
Giai đoạn 2, từ giữa năm 1994 đến năm 1996, các nhà điều hành ngân
hàng nỗ lực giải quyết vấn đề ngày càng xấu đi của ngành ngân hàng bằng
thu nhập từ thuế thu của công chúng. Chính phủ bị chỉ trích nặng nề. Kết quả
Đặng Thu Nga – Anh17K44H
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét