Trình bày những vấn đề lý luận cơ bản của phân tích hoạt động kinh doanh
như: khái niệm, vai trò, nội dung và phương pháp phân tích hoạt động kinh doanh.
Bên cạnh đó, tài liệu còn nêu lên được các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh cũng như phân loại chi phí trong quá trình sản xuất kinh doanh
và các nhân tố ảnh hưởng đến các loại chi phí đó. Điều này sẽ giúp cho các doanh
nghiệp nhận thức chính xác hơn các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh
của mình để từ đó có những phương án kinh doanh hiệu
quả hơn nhằm mang lại lợi nhuận tốt hơn cho doanh nghiệp mình. Ngoài ra, tài liệu
còn cho chúng ta biết lợi nhuận và hiệu quả hoạt động kinh doanh là như thế nào,
đồng thời cũng đưa ra các chỉ tiêu và phương pháp phân tích lợi nhuận cũng như
hiệu quả kinh doanh cùng với các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận nhằm giúp cho
doanh nghiệp hoạt động tốt hơn.
Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản trị ngân hàng thương mại
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay (Nguyễn Thị Xuân Liễu, năm
2001):
Trình bày tổng quan về ngân hàng thương mại và các nội dung quản trị trong
một ngân hàng thương mại, đồng thời nêu lên thực trạng và những tồn tại chủ yếu
trong hoạt động của ngân hàng thương mại nước ta đòi hỏi phải tăng cường công tác
nâng cao quản trị. Từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản trị
ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường Việt nam.
Một số giải pháp nâng cao năng lực quản trị rủi ro của các ngân hàng
thương mại Việt Nam (Vương Ngọc Linh, năm 2005):
Trình bày những lý luận cơ bản về ngân hàng thương mại, công tác quản trị
kinh doanh trong ngân hàng thương mại và quản trị rủi ro trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Phân tích và đánh giá thực trạng của các loại rủi ro trong hoạt
động của ngân hàng thương mại, đồng thời chỉ rõ nguyên nhân gây ra rủi ro và nhận
xét các biện pháp hạn chế rủi ro đang được áp dụng hiện nay. Từ
đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi ro tại các ngân
hàng thương mại Việt Nam hiện nay.
Phương hướng phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam trong tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế (Lâm Thị Hồng Hoa, năm 2005)
Trang 5
Trình bày hệ thống ngân hàng và vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh
vực ngân hàng, đồng thời nêu lên thực trạng của hệ thống ngân hàng Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Từ đó đưa ra các phương hướng phát triển
hệ thống ngân hàng Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và các giải
pháp để thực hiện các phương hướng đó.
Trang 6
CHƯƠNG II
PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. PHƯƠNG PHÁP LUẬN
2.1.1. Khái niệm, đối tượng và nội dung phân tích hiệu quả HĐKD
2.1.1.1. Khái niệm
- Kinh doanh là gì?
Kinh doanh là thực hiện một, một số hay tất cả công đoạn của quá trình đầu
tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm
mục đích sinh lời. (5; tr.4)
- Hoạt động kinh doanh là gì?
Hoạt động kinh doanh là những hoạt động phù hợp và nằm trong khuôn khổ
của pháp luật của các tổ chức, cá nhân, nhằm thoả mãn nhu cầu của con người thông
qua việc cung cấp hàng hoá dịch vụ trên thị trường, đồng thời hoạt động kinh doanh
còn để tìm kiếm lợi nhuận. (5; tr.217)
- Hiệu quả kinh doanh là gì?
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các
nguồn lực sẵn có của đơn vị cũng như của nền kinh tế để thực hiện các mục tiêu đặt
ra. Hiệu quả là lợi ích tối đa thu được trên chi phí tối thiểu. Hiệu quả kinh doanh là
kết quả đầu ra tối đa trên chi phí đầu vào tối thiểu. ( 4; tr.36)
Kết quả đầu ra
Hiệu quả kinh doanh =
Chi phí đầu vào
- Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh là gì?
Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh là quá trình nghiên cứu để đánh giá
toàn bộ quá trình và hiệu quả hoạt động kinh doanh tại doanh nghiệp nhằm làm rõ
chất lượng hoạt động kinh doanh và các nguồn tiềm năng cần khai thác, từ đó đề ra
các phương án và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
2.1.1.2. Đối tượng
Trang 7
Phân tích kinh doanh là phân chia các hiện tượng, quá trình và kết quả kinh
doanh thành nhiều bộ phận cấu thành. Đối tượng phân tích kinh doanh là kết quả
kinh doanh, kết quả tài chính của doanh nghiệp.
2.1.1.3. Nội dung
Nội dung của phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh là đánh giá quá trình
hướng đến kết quả hoạt động kinh doanh với sự tác động của các yếu tố ảnh hưởng
được biểu hiện qua các chỉ tiêu kinh tế. Nó không chỉ đánh giá biến động mà còn
phân tích các nhân tố phụ thuộc vào mối quan hệ cụ thể của nhân tố với chỉ tiêu
phân tích.
Vậy trước hết phải xây dựng hệ thống các chỉ tiêu kinh tế cùng với việc xác
định mối quan hệ phụ thuộc của các nhân tố tác động đến chỉ tiêu. Xây dựng mối
liên hệ giữa các chỉ tiêu khác nhau để phản ánh được tính phức tạp, đa dạng của nội
dung phân tích.
2.1.2. Ý nghĩa, nhiệm vụ của phân tích hoạt động kinh doanh
2.1.2.1. Ý nghĩa
Phân tích hoạt động kinh doanh chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình
hoạt động của doanh nghiệp. Đó là một công cụ quản lý kinh tế có hiệu quả mà các
doanh nghiệp đã sử dụng từ trước tới nay. Như chúng ta đã biết, mọi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp đều nằm trong thế tác động liên hoàn với nhau. Do đó, chỉ
có thể tiến hành phân tích các hoạt động kinh doanh một cách toàn diện, mới có thể
giúp cho các nhà doanh nghiệp đánh giá đầy đủ và sâu sắc mọi hoạt động kinh tế
trong trạng thái thực của chúng. Chính vì vậy mà việc phân tích hoạt động kinh
doanh sẽ có tác dụng:
+ Giúp doanh nghiệp tự đánh giá mình về thế mạnh, thế yếu để củng cố, phát
huy hay khắc phục, cải tiến quản lý.
+ Kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh thông qua những chỉ tiêu
kinh tế đã xây dựng.
+ Phát hiện khả năng tiềm tàng chưa được phát hiện.
+ Giúp doanh nghiệp nhìn nhận đúng đắn khả năng sức mạnh và hạn chế của
doanh nghiệp.
+ Là cơ sở quan trọng để ra các quyết định kinh doanh
Trang 8
+ Là công cụ quan trọng trong những chức năng quản trị có hiệu quả ở doanh
nghiệp.
+ Phòng ngừa rủi ro
+ Hữu dụng cho cả trong và ngoài doanh nghiệp
2.1.2.1. Nhiệm vụ
Đánh giá kết quả thực hiện được so với kế hoạch hoặc so với tình hình thực
hiện kỳ trước, các doanh nghiệp tiêu biểu cùng ngành hoặc chỉ tiêu bình quân nội
ngành và các thông số thị trường.
Phân tích những nhân tố nội tại và khách quan đã ảnh hưởng tình hình thực
hiện kế hoạch. Phân tích hiệu quả các phương án kinh doanh hiện tại và các dự án
đầu tư dài hạn. Xây dựng kế hoạch dựa trên kết quả phân tích.
Phân tích dự báo, phân tích chính sách và phân tích rủi ro trên các mặt hoạt
động của doanh nghiệp.
Lập báo cáo kết quả phân tích, thuyết minh và đề xuất kế toán quản trị
2.1.3. Tổng quan về hoạt động của ngân hàng thương mại
2.1.3.1. Thế nào là ngân hàng thương mại
- Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính nhận gửi tiền và cho vay tiền.
- Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính có giấy phép kinh doanh của
chính phủ để cho vay tiền và mở các tài khoản tiền gửi, kể cả các tài khoản tiền gửi
mà dựa vào đó có thể dùng các tờ sec.
- Ngân hàng thương mại là nơi trực tiếp giao dịch với công chúng để nhận ký
thác cho vay và cung ứng những dịch vụ tài chính.
- Điều 1 của pháp lệnh ngân hàng Việt Nam: Ngân hàng thương mại là tổ chức
kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của
khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng tiền đó cho vay, thực hiện nghiệp
vụ chiết khấu thương phiếu và làm phương tiện thanh toán.
Tóm lại, ngân hàng thương mại có thể định nghĩa như sau: Ngân hàng thương
mại là doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ - tín dụng, huy động vốn cho vay
chiết khấu, bảo lãnh dịch vụ thanh toán và cung cấp các dịch vụ khác.
Trang 9
2.1.3.2. Chức năng của ngân hàng thương mại
Hình 1: Sơ đồ các chức năng của ngân hàng thương mại
Tạo tiền:
Một trong những chức năng của ngân hàng thương mại là khả năng tạo tiền
và huỷ tiền. Tạo tiền cùng với chức năng khác của ngân hàng thương mại hợp thành
một hệ thống các chức năng, phản ánh bản chất của ngân hàng thương mại. Chức
năng này được thực hiện thông qua các hoạt động tín dụng và đầu tư, trong mối
quan hệ với ngân hàng Trung ương của mỗi nước. Nếu tín dụng ngân hàng được mở
ra để tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh và những hoạt động của nó thì
trong những trường hợp sản xuất không thực hiện được và nguồn tích luỹ sẽ bị hạn
chế. Hơn nữa các đơn vị sản xuất có thể bị ứ đọng vốn, không sản xuất được vào
quá trình sản xuất ở mọi thời điểm, nhưng lại thiếu vốn ở thời điểm khác.
Trong nền kinh tế, bao giờ và lúc nào cũng phải tôn trọng một nguyên tắc quan
trọng là cung tiền tệ phải vừa đủ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế với tốc độ phát
triển kinh tế dự kiến. Nếu tiền cung ứng tăng quá nhanh tất yếu lạm phát sẽ xuất hiện
và những hậu quả của nó đương nhiên nền kinh tế phải gánh chịu. Các ngân hàng
thương mại đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện chính sách này, trong mối
quan hệ với ngân hàng Trung ương của mỗi nước. Tín dụng ngân hàng trong trường
Trang 10
Chức năng của ngân
hàng thương mại
Tạo
tiền
Cơ
chế
thanh
toán
Huy
động
tiết
kiệm
Mở
rộng
tín
dụng
Tạo điều
kiện để
tài trợ
ngoại
thương
Dịch
vụ uỷ
thác
Bảo
quản
an toàn
vật có
giá
Dịch
vụ
kinh
kỷ
hợp này thực hiện vai trò của nó như là kênh dẫn để thông qua đó tiền cung ứng tăng
hoặc giảm xuống phù hợp với chính sách tiền tệ quốc gia.
Cơ chế thanh toán:
Bên cạnh chức năng tạo tiền, các ngân hàng thương mại còn thực hiện một
chức năng khác là đưa ra cơ chế thanh toán, hay nói cách khác sự vận động vốn là
một trong những chức năng quan trọng do các ngân hàng thương mại thực hiện. Ở
các nước phát triển và đang phát triển, phần lớn công tác thanh toán được thực hiện
thông qua séc và thẻ thanh toán.
Phần lớn séc thanh toán trong nước được thực hiện bằng thanh toán bù trừ
thông qua hệ thống ngân hàng thương mại. Việc phát hành séc để rút tiền từ tài
khoản tiền gửi và ký thác trong cùng một ngân hàng thật ra đó là sự chuyển vốn từ
tài khoản này sang tài khoản khác, và nếu giữa hai ngân hàng trong cùng một địa
bàn sẽ tiến hành trao đổi séc trực tiếp. Nhưng nếu xảy ra một trong số ngân hàng
trong cùng một địa bàn buộc phải tiến hành thông qua thanh toán bù trừ diễn ra giữa
các ngân hàng thuộc địa bàn khác nhau trong nước.
Huy động tiết kiệm:
Các ngân hàng thực hiện các dịch vụ rất quan trọng đối với tất cả dân cư trong
nước thuộc các khu vực của nền kinh tế bằng cách đáp ứng những điều kiện và các
công cụ thuận lợi cho việc chuyển tiền và rút tiền tiết kiệm một cách dễ dàng, nhằm
thực hiện các mục đích có tính chất xã hội rộng lớn. Do đó, huy động tiết kiệm đã trở
thành một chức năng quan trọng của ngân hàng thương mại.
Mở rộng tín dụng:
Chức năng chủ yếu và quan trọng bậc nhất của ngân hàng thương mại là mở
rộng tín dụng đối với các ngân hàng đáng tin cậy. Chức năng tín dụng được hình
thành từ rất sớm. Ngay khi hình thành, những người tổ chức các ngân hàng luôn tìm
kiếm cơ hội để thực hiện cho vay.
Tạo điều kiện để tài trợ ngoại thương:
Việc tài trợ này góp phần vào tự do ngoại thương giữa các nước với nhau và
với một phí tổn thấp hơn. Do quá trình hợp tác và phân công lao động có tính quốc
tế, nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại của các ngân hàng thương mại cũng tăng không
ngừng.
Trang 11
Dịch vụ uỷ thác:
Các văn phòng uỷ thác có trách nhiệm đầu tư quản lý số vốn này và phân
phối thu nhập theo các điều khoản của hợp đồng uỷ thác.
Bảo quản an toàn vật có giá:
Chức năng bảo quản an toàn vật có giá chỉ diễn ra ở các ngân hàng lớn, nơi
có điều kiện hình thành các kho đặc biệt, bảo quản an toàn và chắc chắn.
Dịch vụ kinh kỷ:
Phần lớn ngân hàng thương mại đều cung cấp dịch vụ kinh kỷ - đó là việc
mua và bán các chứng khoán cho khách hàng. Mặc dù quyền hạn trong dịch vụ tài
chính của các ngân hàng được nâng lên nhưng không vượt quá giới hạn các hoạt
động bảo lãnh hoặc cung ứng các dịch vụ nghiên cứu và vốn đầu tư thông thường
kết hợp với các hoạt động môi giới. Việc cho phép tiến hành cung cấp những dịch
vụ này được thực hiện trước năm 1983 nhưng vẫn chưa hội đủ những kinh nghiệm
cần thiết để đánh giá khả năng tiềm tàng của chúng.
2.1.3.3. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Hoạt động huy động vốn:
Hoạt động huy động vốn là một trong những chức năng của ngân hàng
thương mại. Vốn huy động là nguồn vốn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng nguồn vốn của
ngân hàng thương mại. Vì vậy nếu huy động được nhiều vốn thì có thể mang lại lợi
nhuận cao cho ngân hàng cũng như có thể mở rộng hoạt động và cung cấp vốn cho
hoạt động kinh tế.
Trên thị trường có rất nhiều loại khách hàng khác nhau, trong đó gồm có hai
loại chính: khách hàng là cá nhân và khách hàng là đơn vị kinh tế, doanh nghiệp
Nhà nước, công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân. Vì thế các hình
thức huy động vốn cũng rất đa dạng để thích hợp với từng loại khách hàng. Hiện
nay tại các ngân hàng thương mại các nước cũng có các hình thức huy động vốn
như sau:
a) Tiền gửi thanh toán:
Ngân hàng thương mại từ khi mở cửa hoạt động thì không ngừng động viên
khuyến khích khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng. Tiền gửi thanh toán là loại tiền
gửi mà người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào mà cũng không cần báo trước cho
Trang 12
ngân hàng và ngân hàng phải đáp ứng được yêu cầu đó của khách hàng. Tài khoản
được sử dụng cho tiền gửi thanh toán được coi là tài khoản giao dịch hay gọi là tài
khoản séc. Tài khoản séc ngày nay chia ra hai loại: Tài khoản thanh toán dùng cho các
tổ chức kinh tế và tài khoản thanh toán dùng cho cá nhân.
Đặc điểm nổi bật của loại tiền gửi này là khách hàng gửi tiền vào ngân hàng
đã hình thành một khế ước mặc nhiên, trong đó ngân hàng phải thoả mãn nhu cầu
chi trả của khách hàng bất cứ lúc nào. Nếu vi phạm ngân hàng sẽ bị xử lý theo quy
định của pháp luật.
Mục đích của loại tiền gửi này nhằm đảm bảo an toàn về tài sản thực hiện
các khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong tiêu dùng, tiện lợi
trong việc thanh toán bằng tiền mặt. Đối với ngân hàng loại tiền gửi thanh toán
thường có sự dao động lớn, do đó ngân hàng chỉ áp dụng một tỷ lệ nhất định để cho
vay nên ngân hàng thường áp dụng với lãi suất thấp.
Trong việc sử dụng tiền gửi thanh toán, khách hàng thường dùng các công cụ
thanh toán để chi trả như: Séc, lệnh chuyển tiền Trong đó, séc được coi là công cụ
thanh toán chủ yếu vì sử dụng séc một mặt bảo đảm an toàn về ngân quỹ, mặt khác
séc là hình thức chi trả đơn giản và tiện lợi.
b) Tiền gửi có kỳ hạn:
Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và cá nhân sau khi thu được lợi
nhuận mà tạm thời chưa sử dụng đến trong một thời gian nhất định nào đó có thể ký
thác vào ngân hàng một cách có kỳ hạn. Đối với loại tiền gửi này, người gửi tiền chỉ
được rút ra khi đáo hạn. Tuy nhiên trên thực tế do áp lực cạnh tranh, các ngân hàng
cho phép khách hàng rút tiền trước hạn với điều kiện là người gửi tiền không được
trả lãi hoặc chịu một mức lãi suất thấp hơn lãi suất trả cho tiền gửi có kỳ hạn, điều
kiện tuỳ thuộc vào chính sách huy động của ngân hàng và loại tiền gửi định kỳ.
Tiền gửi định kỳ có nhiều loại khác nhau, thông thường có kỳ hạn 3 tháng, 6
tháng, 12 tháng. Khác với tiền gửi thanh toán, tiền gửi định kỳ là tiền gửi tạm thời
chưa sử dụng hoặc tiền gửi để dành của cá nhân. Vì vậy mục đích gửi tiền vào ngân
hàng là nhằm kiếm lợi tức. Do đó thường dùng biện pháp lãi suất để huy động
nguồn vốn này là chủ yếu.
Trang 13
Hiện nay, các ngân hàng thương mại đang áp dụng hai loại tiền gửi định kỳ:
Tiền gửi định kỳ theo tài khoản và tiền gửi định kỳ với hình thức phát hành kỳ
phiếu. Nguồn tiền gửi định kỳ là nguồn tiền gửi có tính chất ổn định ở ngân hàng
thương mại. Do vậy nó có thể dùng để cho vay trung và dài hạn với lãi suất cao hơn
lãi suất tiền gửi thanh toán không kỳ hạn. Ngân hàng áp dụng nguyên tắc kỳ hạn
càng dài lãi suất càng cao.
c) Tiền gửi tiết kiệm:
Ở Việt Nam tiền gửi tiết kiệm hết sức đa dạng và phong phú được chia ra
làm nhiều loại:
- Tiền gửi tài khoản không kỳ hạn: Là loại tiền gửi không có thời gian đáo
hạn, khi nào người gửi muốn rút tiền thì phải thông báo cho ngân hàng một thời
gian. Tuy nhiên, ngày nay ngân hàng cho phép khách hàng rút tiền ra không cần
thông báo trước. Đây là hình thức hoạt kỳ mà đối tượng gửi chủ yếu là người tiết
kiệm, dành dụm hầu trang trải những chi tiêu cần thiết, đồng thời có một khoản lãi
góp phần vào việc chi tiêu hàng tháng. Ngoài ra, đối tượng gửi tiền có thể là những
người thừa tiền nhàn rỗi muốn gửi vào ngân hàng để thu hoạch lợi tức đồng thời
đảm bảo an toàn hơn tiền gửi ở nhà.
Loại tiền gửi tài khoản không kỳ hạn lãi suất thấp do ngân hàng không chủ
động được nguồn vốn và lãi luôn được nhập vốn và thường tính lãi theo nhóm ngày
gửi tiền. Còn đối với tiền gửi thanh toán thì lãi nhập vốn vào cuối tháng.
- Tiền gửi tài khoản có mục đích: Người ký thác tiền ở ngân hàng nhằm mục
đích nhất định như để mua sắm nhà cửa, trang trãi chi phí học tập cho con cái. Đối
với những người gửi tiền loại này ngân hàng thường cấp thêm tín dụng để bù đắp
phần thiếu hụt khi sử dụng theo mục đích của người gửi tiền.
Tiền gửi tài khoản định kỳ hiện nay được phân thành hai loại: Tiền gửi tài
khoản có kỳ hạn dưới 12 tháng và tiền gửi tài khoản từ 12 tháng trở lên.
Khách hàng gửi tiết kiệm định kỳ thì được ngân hàng cấp cho một bản kê lúc
gửi tiền đầu tiên và theo định kỳ hàng tháng để phản ánh tất cả số phát sinh. Khách
hàng quản lý và mang theo bên người khi đến ngân hàng giao dịch.
Trang 14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét