mực nào đó còn sử dụng sức mạnh của cảm xúc thẩm mỹ. Trong nhiều trường
hợp, cảm xúc thẩm mỹ đã trở thành động lực đưa tác phẩm đạt tới những phẩm
chất khác lạ. Trong phóng sự, cái tôi bao giờ cũng là tác giả chứ không phải là
thủ pháp nghệ thuật như trong chuyện ngắn hay tiểu thuyết. Tác giả kể lại rõ
rành mạch những sự kiện đã xảy ra với tư cách là người trực tiếp chứng kiến và
trình bày sự kiện. Điều đó ấn định kênh giao tiếp giữa tác giả và người đọc.
Công chúng luôn có cảm giác có mặt trong từng chi tiết dù là nhỏ nhất và kể lại
cho họ toàn bộ những gì tác giả mắt thấy tai nghe. Cái tôi - tác giả trong phóng
sự vừa là người dẫn chuyện, người trình bày, người lý giải, người kết lối các dữ
kiện mà tác phẩm đề cập tới. Ở một khía cạnh khác, “cái tôi trần thuật” còn góp
phần tạo ra giọng điệu của tác phẩm xuất phát từ đối tượng mô tả và nhằm thêm
định đối tượng đó, giọng điệu của phóng sự rất sinh động khi nghiêm túc, lý lẽ,
hài hước và khi lại tràn đầy cảm xúc.
Trong bài viết, tác giả phóng sự còn có thể huy động những vốn kiến thức,
những hiểu biết khác nhau của mình để bài viết thêm phong phú. Ngoài ra, tác
giả còn là người quyết định biết kết hợp các đặc điểm của nhiều thể loại khác
nhau để có thể tả tác phẩm của mình một hình hài khác lạ với nhiều phẩm chất
độc đáo. Đây cũng chính là cách tác giả trình bày một cách trung thực sống
động về một hiện thực. Chính vì cái tôi tác giả có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong tác phẩm phóng sự nên chúng ta luôn được đọc những phóng sự khác nhau
của các tác giả khác nhau ngay cả khi họ viết về một đề tài. Văn phong cảm xúc,
cách sử dụng các biện pháp khác nhau của mỗi tác giả tạo nên những diện mạo
khác nhau cho phóng sự.
Trong lí luận báo chí, từ lâu người ta đã đặc biệt lưu ý đến những phẩm
chất văn học của thể loại phóng sự: “Nếu ta hình dung đường ranh giới nối liềon
tiểu thuyết với các thể tài báo chí thì cái đường ranh giới đó có lẽ là phóng sự”.
Đây là ý kiến được rút ra sau khi tác giả xem xét tính sự kiện của báo chí với
tính nghệ thuật trong cách trình bày hiện thực của phóng sự. “Phóng sự thông
ThÓ lo¹i phãng sù
5
thường phản ánh sự thưc bằng hình ảnh, qua lối viết bằng hình ảnh. Ta có thể
hình dung ra bức tranh xác thực về một khía cạnh nào đó của cuộc sống mà ở đó
có phẩm chất tinh thần của con người. Bởi vậy, những phóng sự hay thường toát
ra cả ý nghĩa mỹ học”.
Giáo sư Hà Minh Đức cho rằng: “Có quan niệm cho rằng xem ký bao gồm
phóng sự là loại thể kết hợp hai yếu tố lịch sử và nghệ thuật. Yếu tố lịch sử là sự
thật của cuộc sống với tính xác thực làm đối tượng, và nội dung phản ánh của
tác phẩm, yếu tố nghệ thuật là phương thức và đặc trưng biẻu hiện yếu tố lịch
sử. Gọi là văn học, vì những tư liệu đó được trình bày thông qua phương thức
điển hình hoá nghệ thuật. Do đó, trong kí phải đặc biệt tôn trọng tính xác thực
của tư liệu về cuộc sống nếu không đực điểm của thể loại sẽ bị xóa nhoà. Mặt
khác, cũng phải nhấn mạnh đến tính nghệ thuật. Thiếu tính nghệ thuật những tư
liệu đó chỉ là những tư liệu thuần tuý của cuộc sống. Ranh giới cuộc sống và
nghệ thuật gắn rất chặt trong ký đến mức độ cuộc sống cũng chính là nghệ thuật.
Nhưng cũng không thể đồng nhất giữa cuộc sống và nghệ thuật dễ dẫn đến tính
nghệ thuật bị mờ nhạt hoặc bị gạt bỏ trong tác phẩm kí”.
Từ đó giải thích tại sao lại có sự gần gũi giữa phóng sự và văn học. Phóng
sự là thể tài duy nhất có thể trình bày một bức tranh vừa có tính khái quát cao
vừa chi tiết vừa cụ thể về một hiện thực đa dạng, bề bộn đồng thời lý giải những
vấn đề đặt ra từ hiện thực ấy một cách thoả đáng. Mặt khác, trong tác phẩm
phóng sự, tác giả vẫn có thể sử dụng bút pháp vừa là thông tin thời sự vừa thông
tin thẩm mỹ để tạo ra giọng điệu đa thanh. Vì thế, khi đọc một tác phẩm phóng
sự người ta cứ ngỡ là đọc một tác phẩm văn học. Trong phóng sự “Chúng tôi
nói bằng ngôn ngữ của tình yêu…” nhà báo Nhật Lệ đã viết: “Đôi mắt đổ bóng
tâm linh - Tôi bỗng nhớ về Tagore với cảm nhận của Người về thế giới của
người câm, trong đó không có chỗ cho cái ác ẩn náu, nơi con người có thê mở
lòng ra với thiên nhiên vô tận, nơi tâm hồn chân chất, hoang sơ của họ biết rung
động và yêu thương trước cái Đẹp. Đằng sau mỗi cuộc đời âm thầm không có
ThÓ lo¹i phãng sù
6
ngôn ngữ, còn có cánh cửa mở ngỏ ra một thế giới khác, trong đó, ai có thể đọc
thấu được những khát khao của họ, mơ ước thoát khỏi sự cách biệt với xã hội và
đánh mất những mặc cảm về thân phận, để có được những niềm vui hồn nhiên”.
Phẩm chất văn học trong phóng sự không phải là cách tác giả thêm thắt
vào trong tác phẩm mà phẩm chất đó tồn tại ngay trong hiện thực. Đặc biệt là
trong giai đoạn hiện nay có biết bao nhiêu là sự kiện, cuộc đời đầy kịch tính, đầy
sống động. Bởi vì theo như Bô-rít Pô-lê-vôi thì: “Cuộc sống của chúng ta muôn
hình muôn vẻ như thế, biết bao nhiêu sự việc đã xảy ra, thực ra cũng không cần
thiết phải hư cấu, thêm thắt tô vẽ gì thêm nữa”.
Hiện thực là cái nôi cho mọi sự sáng tạo. Mô tả được hiện thực điển hình
đúng với phẩm chất tinh thần và bộ mặt của nó,nghĩa là tác phẩm đã tiếp cận
đến những phạm trù thẩm mỹ. Vì thế, hiện thực cuộc sống là miền đất cung cấp
dồi dào những đề tài cho phóng sự. Từ chuyện nhỏ như cuộc đới phu kéo xe đến
chuyện lớn như cuộc Cách mạng tháng Mười rung chuyển cả thế giới, thay đổi
cả một chế độ chính trị đều là những đề tài hấp dẫn đối với phóng sự. Trong tác
phẩm phóng sự, đối tượng miêu tả càng điển hình bao nhiêu, tác phẩm càng có
khả năng tiếp cận với những phẩm chất của văn học bấy nhiêu. Tất nhiên đối với
những người làm báo không phải ai cũng có được nhiều cơ hội chứng kiến
những sự kiện trọng đại, nhưng điển hình có nhiều cấp độ và những cấp độ đó
không hề làm giảm bớt những phẩm giá văn học trong phóng sự.
Tuy có những điểm gần gũi với văn học nhưng điều khác biệt lớn nhất để
phân biệt phóng sự báo chí với các thể loại văn học là phóng sự chỉ phản ánh về
những sự kiện, những con người có thật trong cuộc sống.
Về kết cấu thời gian và không gian, phóng sự là một thể tài có kết cấu linh
hoạt. Tuy sự kiện trong tác phẩm được trình bày một cách chi tiết, đầy đủ và rõ
ràng nhưng không nhất thiết phải theo một trình tự nhất định. Trình tự thời gian
có thể được đảo lộn tuỳ vào ý đồ của tác giả. Có thể khi đang thuật lại sự kiện ở
ThÓ lo¹i phãng sù
7
thờiđiểm hiện tại của nó, tác giả có thể lần ngược lại dòng thời gian, phác hoạ
cho ta thấy phần nào diện mạo xưa của sự kiện, nhân vật đó. Kết cấu không gian
cũng vậy. Khi tác giả đang đề cập đến những địa điểm nơi xảy ra sự việc tác giả
có thể nhắc đến một địa điểm khác để so sánh làm nổi bật lên ý đồ của tác giả.
Kết cấu của một tác phẩm phóng sự có tác dụng không nhỏ đối với việc
làm nổi bật chủ đề tư tưởng của bài. Tác dụng của nó nằm trong mối quan hệ
của hình thức đối với nội dung. Kết cấu của phóng sự không những xuất phát từ
nội dung sự kiện, mà nó còn phải biểu đạt nội dung đó bằng những hình thức
thích hợp nhất. Vì vậy, khi xây dựng kết cấu tác phẩm phóng sự, trước hết người
làm báo phải căn cứ vào chủ đề, đề tài, tài liệu cụ thể, đối tượng cần tác động và
các yêu cầu cụ thể khác của báo mình, đồng thời kết hợp với vị trí của mình (góc
nhìn) rồi hình dung lại toàn bộ sự kiện để định ra các bố cục tương ứng.
Bố cục của bài phóng sự có nhiều loại hình đa dạng. Bởi vậy, ta không
nên quy định cho nó những khuôn khổ xơ cứng, nhất là khi cuộc sống đang phát
triển và ngày một phong phú, sinh động. Có thẻ ghi nhận một vài bố cục của các
tác phẩm phóng sự thường được sử dụng nhiều nhất như sau:
• Thành phần kết cấu của phóng sự thường có 3 phần:
Mở bài, thân bài và kết thúc. Đôi khi cũng có thể thêm phần giới thiệu
trước khi vào bài nhằm nêu rõ lý do, xuất xứ của sự kiện, hoàn cảnh lịch sử,
hoặc nhân vật đặc biệt của bài. Đối với những bài có tầm quan trọng nhất định
cũng có thể đem phần đuôi để nhấn mạnh một ý nghĩa nào đó đối với công
chúng.
* Phần mở đầu, còn gọi là phần nêu vấn đề:
Thông qua một sự kiện, sự việc, tình huống hay một con người cụ thể, tác
giả nêu được vấn đề mà bài phóng sự của mình sẽ đề cập tới. Vấn đề được nêu
có thể dưới dạng câu hỏi chưa được trả lời hoặc cũng có thể là sự khẳng định.
ThÓ lo¹i phãng sù
8
Ngoài ra, tác giả cũng có thể đặt vấn đề phát từ chính kiến thức, kinh nghiệm
của mình. Dù dưới hình thức nào thì mục đích chính của phần này cũng nhằm
nêu lên vấn đề mà tác giả sẽ tập trung làm rõ. Bởi vậy, phần này thường ngắn
gọn và được đặt trước những tít phụ. Ở phần này, tác giả không những phải đảm
bảo tính nhất quán cao của chủ đề của tác phẩm, tránh lối “đầu dơi thân chuột”,
mà còn phải coi trọng nghệ thuật thẻ hiện, thu hút sự chú ý của công chúng ngay
từ đầu. Có nhiều cách mở đầu, chẳng hạn.
- Mở đầu bằng cách khái quát thành hình ảnh hoặc nêu bật tầm vóc, ý
nghĩa của đối tượng cần miêu tả, từ đó tạo cho công chúng có sự cảm thụ mới.
Cách này đòi hỏi tác giả phải có tầm nhìn sâu, có khả năng khái quát vấn đề.
- Mở đầu bằng bối cảnh dẫn tới sự nảy sinh sự kiện.
- Mở đầu có thể nêu lên những hình ảnh liên tưởng của tác giả, từ đó gợi
cho công chúng nguồn cảm thụ phong phú và sâu sắc.
- Mở đầu có thể đưa đỉnh cao ( điểm chót) của sự kiện lên rồi đặt vấn đề
hoặc đánh dấu hỏi để thu hút sự chú ý của người xem.
- Mở đầu có thể miêu tả cảnh vật, hoặc tính cách đặc sắc của nhân vật
trung tâm. Cần tánh lối đặt vấn đề sáo rỗng.
- Mở đầu cũng có thể đưa lên những vần thơ, lời ca có nội dung hàm súc,
ý nhị, hoặc có thể kết hợp lối văn trữ tình…
* Phần thân bài, còn gọi là phần diễn giải, chứng minh sự tồn tại của
vấn đề đã nêu.
Thân bài là thành phần chủ chốt của tác phẩm, là bộ phận trung tâm thể
hiện tư tưởng, chủ đề tác phẩm phóng sự. Thân bài không phải là nơi gói ghém
những tài liệu khô khan, công thức theo lối khái quát chung chung, mà là phần
trình bày nội dung sinh động của sự kiện, làm sáng tỏ được phẩm chất tinh thần
của người và bộ mặt xã hội để góp phần vào công tác tư tưởng của Đảng theo
yêu cầu tuyên truyền trong từng thời kì. Trong phần này tác giả trình bày những
con số, chi tiết sự việc, con người có thật, điển hình mà bản thân tác giả đã thu
ThÓ lo¹i phãng sù
9
thập được. Những dữ kiện ấy được sắp xếp một cách có chủ định nhằm minh
hoạ một cách rõ ràng nhất vấn đề đã nêu lên. Cái tôi trần thuật – tác giả - nhân
chứng khách quan làm nhiệm vụ khâu nối các dữ kiện, còn chủ đề tác phẩm
xuyên suốt nội dung tác phẩm. Những con số, sự kiện, tình huống hay những
con người có thật được coi là nguyên liệu tạo nên tác phẩm. Nhưng đó mới chỉ
là luận cứ, thế giới dựa vào những luận cứ đó để tạo nên luận chứng của tác
phẩm. Luận cứ phải đáp ứng được những tiêu chuẩn như tình hình, thời sự, đọc
đáo, hấp dẫn, nhằm đạt tới những hiệu quả thông tin cao nhất.
* Phần kết luận:
Đây là pần được coi là quan trọng nhất vì nó là mục đích mà tác phẩm cần
đạt tới. Trong phóng sự, lập luận phải rõ ràng, các yếu tố luận cứ, luận chứng,
luận điểm phải liên kết với nhau tạo nên hiệu quả đồng nhất. Luận cứ, luận
chứng càng cụ thể, mạch lạc thì càng nâng cao được tầm cao của sự kiện. Trong
phần kết, tác giả thường đề xuất ý kiến của mình nhằm trả lời những câu hỏi mà
hiện thực trong tác phẩm đặt ra. Với tác giả có kinh nghiệm, phần này thường
được trình bày ngắn gọn, hàm súc và gây ấn tượng mạnh.
Trong ba phần nói trên, hai hần sau được coi là chủ chốt làm nên xương
thịt và linh hồn của phóng sự. Dạng kết cấu ba phần như trên của phóng sự
không khác lắm so với kết cấu của một số thể loại khác, nhưng nhìn một cách
tổng quát, kết cấu sẽ làm một mô hình cơ bản của thể loại phóng sự.
Tuy nhiên, trong bất cứ tác phẩm phóng sự nào, dấu ấn cá nhân cũng được
thể hiện đậm nét, làm nên tính độc đáo của thể loại báo chí này.
• Nhìn chung, khi làm phóng sự tác giả cần chú ý những điểm lớn sau
đây:
- Trên cơ sở trình bày những diễn biến cụ thể, cần nêu bật được mâu thẫn
đã và đang tác động vào cuộc sống khách quan. Khi trình bày được những mâu
thuẫn cần chú ý thuyết minh bằng những tài liệu cụ thể, tránh lặp lại những từ
ThÓ lo¹i phãng sù
10
ngữ khái quát gây không khí nặng nề khô khan, khó thuyết phục kiểu lặp lại
năm bảy lượt những từ quá sáo như: “anh dũng” , “tuyệt vời”, “hào hùng”….
- Nêu bật những nguyên nhân, những yếu tố tác động đến sự nảy sinh mâu
thuẫn và những chủ trương giải quyết mâu thuẫn.
- Sự kiện cần được thể hiện mạch lạc; biến cố cần được thể hiện rõ ràng,
chặt chẽ. Chi tiết được sử dụng trong phóng sự cần phải được cấu tạo bởi những
thành phần cơ bản của cốt truyện. Sau mở đầu, thân bài sẽ là phần trình bày các
biến cố nối tiếp theo một chủ đề nhất định, rồi phát triển tập trung đến đỉnh cao
và kết thúc. Ngoài ra, nếu trình bày thân bài theo dạng cốt truyện, tác giả cần
chú ý đề cập tới tính cách của nhân vật, nhất là những nhân vật trung tâm.
Trong phóng sự, người viết có thể sử dụng ngôn ngữ ở nhiều góc độ khác
nhau để biểu đạt nội dung ngay cả tiếng địa phương hoặc ngôn ngữ cỗ cũng như
các thuật ngữ khoa học, nhưng không vì thế mà tác giả sử dụng tuỳ tiện, thiếu
chọn lọc, làm đảo lộn qui luật ngữ pháp của ngôn ngữ hoặc làm lu mờ mất
phong cách dân tộc.
• Từ thực tế đó, việc sử dụng ngôn ngữ phóng sự cần chú ý mấy vấn đề
sau:
- Người viết phải có kiến thức và sự am hiểu nhất định về lĩnh vực, đề tài
mình đang thể hiện, ví dụ; kinh tế, chính trị, văn hoá xã hộ; qua cuộc sống thực
tế tìm tòi, tích luỹ kinh nghiệm để biểu hiện sao cho công chúng hiểu được sự
thật, đồng thời cảm thụ sâu sắc tính tư tưởng của tác phẩm phóng sự.
- Mục đích của phóng sự là cung cấp cho công chúng những tri thức
phong phú, đầy đủ, chính xác, để họ có thể nhận thức, đánh giá đúng người và
việc mà họ đang theo dõi. Vì thế, người viết phóng sự cần biết sử dụng một số
phương tiện biểu đạt của văn học như các biện pháp tu từ, ngôn ngữ giàu hìn
ảnh, hướng vào nội tâm của nhân vật để nâng cao của tác phẩm.
ThÓ lo¹i phãng sù
11
- Khai thác tính hình tượng và tính chính luận của ngôn ngữ. Tính hình
tượng của ngôn ngữ rất dồi dào. Nó giúp cho người đọc cảm nhận được bức
tranh sinh động của cuộc sống và hình dung được hoàn cảnh như chính mắt họ
chứng kiến.
- Ngôn ngữ trong phóng sự mang tính nghệ thuật- chính luận sâu sắc, nó
có khả năng hỗ trợ cho bài viết thêm sức thuyết phục khi sự thật được trình bày.
* Ngôn ngữ tác giả:
Trong phóng sự, cái tôi – tác giả là người dẫn chuyện, người trình bày, lý
giải; người khâu nối những dữ kiện mà tác phẩm đề cập với công chúng tiếp
nhận luôn có cảm giác tác giả có mặt trong từng chi tiết nhỏ nhất của tác phẩm.
Khi trình bày và thẩm định hiện thực, “cái tôi” trần thuật – tác giả của
phóng sự mặc dù luôn tỏ ra khách quan với công chúng tiếp nhận và khách
quan, bình đẳng ngay cả với hiện thực mà nó phản ánh nhưng phải tạo được sự
đồng cảm với “cái ta” – công chúng tiếp nhận. Để làm được điều đó, tác giả phải
dũng cảm chỉ ra sự thật, bênh vực sự thật và sự thật đó phải phù hợp với những
lợi ích của đất nước, cộng đồng. Một phóng sự mà tác giả không đủ khả năng
thẩm định hoặc thẩm định méo mó cái hiện thực mà anh ta đem đến cho công
chúng thì không những không tạo ra sự hưởng ứng mà còn khiến công chúng
nghi ngờ tài năng và sự trung thực của chính tác giả.
Ở khía cạnh khác “cái tôi” trần thuật còn góp phần tạo ra giọng điệu của
tác phẩm. Xuất phát từ đối tượng mà tác phẩm đề cập, giọng điệu trong phóng
sự rất sinh động. Có khi nghiêm túc, lý lẽ, hài hước, châm biếm và có khi lại
tràn đầy cảm xúc. Giọng điệu phong phú cùng với nghệ thuật dẫn chuyện, trình
bày chi tiết và xây dựng lý lẽ, nghệ thuật miêu tả, đặc tả khác phác hoạ chân
dung… khiến cho phóng sự có đầy đủ khả năng phản ánh hiện thực trong nhiều
tình huống khác nhau.
ThÓ lo¹i phãng sù
12
Cấu trúc ngôn ngữ trong tác phẩm phóng sự đó là dạng cấu trúc bởi những
đối thoại liên tiếp giữa tác giả và nhân vật, giữa tác giả và người đọc.
Trên cơ sở đặc điểm ngôn ngữ của các thể loại khác, tác giả có thể tạo ra
cho tác phẩm phóng sự của mình một hình hài khác lạ để trình bày một cách
trung thực, xác thực về hiện thực dưới hình thức sinh động, hấp dẫn.
Trong phóng sự “Tôi đi bán tôi” của Huỳnh Dũng Nhân, ngôn ngữ tác giả
được thể hiện ở ngôi thứ nhất: “Tôi dừng xe cách chợ người Giảng Võ (Hà Nội)
một quãng, suy tính mãi xem làm thế nào hoà nhập với họ trong vai cửu vạn.
Nhiều bài báo đã viết về chợ người này nhưng tôi vẫn muốn viết thêm viết nữa”.
* Ngôn ngữ nhân vật:
Trong phóng sự, ngôn ngữ nhân vật thường được xuất hiện xen kẽ với
“cái tôi” trần thuật của tác giả.
Ngôn ngữ nhân vật được tác giả vận dụng vào những trường hợp như khi
cần nhấn mạnh hay khẳng định một cách khách quan về sự kiện chung hay từng
chi tiết có ý nghĩa quan trọng đối với chủ đề bài viết.
Có khi thay lời tác giả nói chuyện, tâm sự với công chúng, làm cho sự
kiện hoặc nhân vật tiếp xúc với bạn đọc một cách tự nhiên, gần gũi hơn.
Ví dụ, trong “Kỹ nghệ lấy Tây”, Vũ Trọng Phụng đối thoại với bà hàng
nước mang tính tự sự. Bà kể một cách ngắn gọn nhưng khái quát chuyện thiếu
nữ Hà thành lấy Tây, rồi bà đánh giá: “Rõ khốn nạn. Tài có, sắc có, chữ nghĩa
cũng có mà thế đấy ”.
Đối với những trường hợp khi sự kiện đã trôi qua hoặc do tác giả chọn
góc đứng gián tiếp, người viết c ó thể dùng hoàn toàn bằng ngôn ngữ nhân vật
ThÓ lo¹i phãng sù
13
dưới hình thức “theo lời kể của…” hoặc “ghi theo lời kể…”. Tất nhiên, tác giả
phải là người sắp xếp, chọn lọc chi tiết và trình bày lại sự kiện bằng tiếng nói
giọng điệu của nhân vật.
Trong phóng sự ngoài tít chính còn có tít phụ. Tít chính là phần nêu vấn
đề – tên gọi của bài báo. Còn tít phụ thuộc về phần diễn giải vấn đề. Tuỳ thuộc
vào nội dung tác phẩm để tác giả xây dựng các tít. Các tít chính và tít phụ được
các tác giả chú ý cọn lựa cách đặt thích hợp nhất. Tít phải đảm bảo được các yêu
cầu: ngắn gọn, súc tích, nêu được tinh thần của bài. Tít chính ngoài chức năng
giới thiệu cốt lõi vấn đề được đề cập còn phải có sức hấp dẫn người đọc. Vì thế,
không phải không có lý khi nhiều người nói rằng: rút tít thật không đơn giản
chút nào.
Tít chính có nhiều loại: Có loại giới thiệu khái quát và đầy đủ toàn bộ vấn
đề sẽ nêu trong bài như: Hà Nội bước qua thiên niên kỷ (Báo Lao động, thứ ba
12/10/1993), Seoul-Kham xa ham ni ta ( Báo Lao động chủ nhật 5/12/1993),
Xót xa chiếu đất màn trời (Báo Tin tức, thứ năm 15/8/2002, số1025), Bên dòng
Krông Ana (Báo Lao động, thứ năm 17/8/1995). Loại tít này không hàm chứa
thông tin cao, người đọc có thể nhận dạng được ngay vấn đề cần nêu trong
phóng sự.
Loại tít mở thường nêu một vế dang dở của vấn đề. Người đọc chưa thể
biết ngay loại thông tin sẽ được đề cập đến là gì. Loại tít này không có ưu điểm
là thâu tóm được cốt lõi của vấn đề nhưng lại có ưu điểm gợi trí tò mò của người
đọc. Như khi ta đọc tít Thầy và trò thời nay ( Đỗ Doãn Hoàng, Báo Hà Nội mới
1/1/1995), Bắc Ninh còn đó nỗi buồn (Trong Thị Kim Dung, Báo Lao động
23/9/1996). Dạng tít mở thường khiến cho người đọc phải theo dõi khám phá rồi
chính nội dung của phóng sự đó sẽ cắt nghĩa cho tít bài.
ThÓ lo¹i phãng sù
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét