Thứ Bảy, 15 tháng 2, 2014

Tư duy nhận thức của Đảng

thứ hai Trung ương Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) tháng 8/1975 đã
chỉ rõ. Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước,
vừa là quy luật khách quan của cách mạng và của lịch sử dân tộc Việt Nam;
nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã được thực hiện
khẩn trương. Vì vậy trong những năm 1975 - 1976, Đảng chủ trương tập trung
hoàn thành thống nhất nước nhà về mặt nhà nước và khẩn trương xây dựng
đường lối đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội IV của Đảng họp từ ngày
14 đến 20-12-1976 tại Hà Nội đã nêu lên mô hình chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong
giai đoạn mới ở nước ta là: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền
làm chủ tập thể của nhân dân lao động; tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng:
cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư
tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng
con người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ
nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố
quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công tổ
quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích
cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội”.
Về đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa, Đại hội nêu rõ phải “Đẩy
mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nước nhà, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên
cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp
và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu công - nông nghiệp, vừa xây dựng
5
kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương; kết hợp kinh tế trung ương
với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp
phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoản thiện quan hệ sản xuất mới; kết
hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ phân công, hợp tác, tương trợ
với các nước xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ
nghĩa, đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ
vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở
thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn
hoá và khoa học - kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn
minh, hạnh phúc”.
Trên cơ sở đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới,
Đại hội đã xác định các nội dung về:
- Phương hướng và nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 phát triển
và cải tạo kinh tế, văn hoá, phát triển khoa học kỹ thuật.
- Đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hoá, xây dựng và phát triển nền
văn hoá mới.
- Tăng cường nhà nước Xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò của các đoàn
thể, làm tốt công tác quần chúng.
- Nhiệm vụ quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng.
- Nâng cao vai trò và sức chiến đấu của Đảng.
Như vậy, so với Đại hội III thì Đại hội IV có sự điều chỉnh từ “đồng thời”
thành “trên cơ sở” trong quan điểm phương châm công nghiệp hoá.
Sau đại hội IV, có nhiều Nghị quyết của Trung ương và Bộ Chính trị về
kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực tế miền Nam sau ngày giải phóng, sau
khi vận dụng những kinh nghiệm cải tạo xã hội chủ nghĩa và hợp tác hoá của
miền Bắc, những khó khăn, đảo lộn to lớn do hai cuộc chiến tranh biên giới Tây
Nam và phía Bắc, sự cắt giảm đột ngột phần lớn viện trợ, những yếu tố khủng
hoảng kinh tế-xã hội tới mức trầm trọng trong những năm 1978 - 1979 đã làm
6
xuất hiện yêu cầu phải nhìn nhận lại đường lối, cả đường lối chung và đường lối
kinh tế, thực chất là quan niệm, nhận thức của Đảng về cách thức giải quyết
những nhiệm vụ của thời kỳ quá độ và dẫn đến giải pháp tình thế cho sản xuất
“bung ra”, ở Hội nghị Trung Ương 6 (8/1979), từ trọng tâm bàn về công nghiệp,
hàng tiêu dùng, công nghiệp địa phương, đồng thời giải quyết những nhiệm vụ
cấp bách về kinh tế và đời sống. Hội nghị đã có sự quan trọng trong tư duy về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đó là chủ trương phải sửa chữa các khuyết điểm trong quản lý kinh tế,
quản lý xã hội, nhất là đổi mới công tác kế hoạch hoá và cải tiến một cách cơ
bản chính sách kinh tế làm cho sản xuất “bung ra” theo phương hướng kế hoạch
của nhà nước. Hướng đổi mới là chống tập trung quan liêu, bảo đảm quyền làm
chủ về kinh tế của các ngành, các cấp, kết hợp kế hoạch hoá với sử dụng thị
trường, xoá ngay chính sách kinh tế đã lỗi thời. Các chính sách mới phải kết hợp
chặt chẽ lợi ích của nh với lợi ích của tập thể và của cá nhân người lao động.
Tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá sự đúng đắn của các chính sách là năng
suất lao động tăng, sản xuất phát triển và đời sống nhân dân được cải thiện. Sự
quản lý tập trung của nhà nước được nới lỏng, các sáng kiến của cơ sở, của các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh được thừa nhận, khuyến khích và do đó
vừa tạo cơ sở khách quan, vừa bước đầu thừa nhận trên thực tế sự cần thiết cảu
sản xuất hàng hoá và quy luật giá trị.
Những giải pháp mà Hội nghị đưa ra mới có tính chất tình thế, chưa dựa
trên một quan niệm nhất quán và rõ ràng về lí luận, nhưng đã đánh dấu một cái
mốc quan trọng. Nó là sự kế tiếp khó khăn những tư tưởng đổi mới từ trước. Và
dù chưa đi đến đổi mới chính thức, nó cũng đã làm rạn nứt những quan niệm cũ,
đã thừa nhận các yếu tố mới trong nhận thức về thời kỳ quá độ, bên ngoài những
yếu tố vốn có của “chủ nghĩa xã hội - Nhà nước”. Nó mở đầu cho quá trình đổi
mới của Đảng về nhận thức lý luận và thực tiễn, trước hết trong lĩnh vực kinh tế.
Hội nghị Trung Ương 6 (8-1979) là hội nghị tạo ra bước mở đầu cho việc
đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Song Nghị quyết 6 đã
7
không được thực hiện ngay mà phải đến cuối năm 1986 mới thực sự thực hiện.
Rõ ràng không phải mọi cái đúng đều dễ dàng đi vào cuộc sống. Nhưng dù sao
từ sau hội nghị này cũng có những nội dung thuộc quan điểm nói trên được áp
dụng, có tác dụng lớn cho nền kinh tế.
Đó là, năm 1981, có chỉ thị 100 - CT/TW của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã, thường
gọi là khoán 100. Nội dung là nêu lên mục đích và nguyên tắc khoán và để thực
hiện mục đích đó phải nắm vững phương hướng chủ yếu là khuyến khích hơn
nữa lợi ích chính đáng của người lao động và làm cho mọi người tham gia các
khâu trong quá trình sản xuất và quản lý của hợp tác xã thực sự gắn bó với sản
phẩm cuối cùng. Do đó mà đưa hết nhiệt tình và khả năng ra lao động sản xuất
và xây dựng, củng cố hợp tác xã. Thực tế lúc đó mới khoán cho xã viên 3/8 khâu
của quy trình sản xuất lúa: Đất, nước, giống, phân bón, trừ sâu, cấy, chăm sóc,
thu hoạch, trong đó xã viên nhận 3 khâu sau. Nếu vượt khoán thì xã viên hưởng.
Khoán 100 đã tạo nên động lực mới trong sản xuất nông nghiệp. Nó
nhanh chóng được nông dân hưởng ứng, nhanh chóng thành phong trào, thu hút
hàng triệu nông dân và đưa lại hiệu quả kinh tế lớn, mở ra triển vọng tốt cho
việc đổi mới mô hình quản lý hợp tác xã nông nghiệp. Nhiều tiêu cực tồn tại
hàng chục năm trong hợp tác xã nông nghiệp như chểnh mảng trong lao động,
thờ ơ với ruộng đất, tham ô, trọng công phóng điểm mà nhiều cuộc vận động
không sao khắc phục được thì chỉ sau một vụ khoán đã cơ bản bị xoá bỏ. Đây là
bước đổi mới tư duy quan trọng trong cải cách một phần mô hình hợp tác xã.
Tiếp đó, trong công nghiệp và kinh tế quốc doanh, ngày 21-1-1981, có
quyết định 25-CP, cũng với tinh thần đó, đề ra chủ trương phát huy quyền chủ
động trong sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp
quốc doanh. Nội dung là coi kế hoạch của xí nghiệp bao gồm 3 phần: phần nhà
nước giao, có vật tư bảo đảm - phần này xí nghiệp làm và giao nộp sản phẩm
cho Nhà nước. Phần xí nghiệp làm, sản xuất thêm - phần này xí nghiệp tận dụng
khả năng của mình thêm, trong khuôn khổ thiết kế của xí nghiệp, trong nhiệm
8
vụ sản xuất tư của nhà nước giao cho xí nghiệp song Nhà nước không bảo đảm
được vật tư, nguyên liệu, gọi là sản phẩm thêm, từ hạch toán đầu vào, đầu ra,
không nằm trong nhiệm vụ sản xuất của xí nghiệp, gọi là sản xuất phụ. Đây là
bộ phận sản xuất do xí nghiệp tự tổ chức thêm, tự hạch toán đầu vào, đầu ra,
không nằm trong nhiệm vụ sản xuất của xí nghiệp, gọi là sản xuất phụ.
Khi sản phẩm làm ra, nếu của Nhà nước giao có vật tư, thì giao nộp cho
Nhà nước. Sản phẩm sản xuất thêm thì ban cho Nhà nước. Còn sản phẩm sản
xuất phụ có thể bán cho nhà nước. Hợp tác xã tiêu thụ hay tự mình tiêu thụ, hay
dùng để đổi lấy vật tư, kể cả vật tư nhập khẩu thông qua cơ quan có thẩm
quyền, đồng thời giữ lại dưới 10% để làm hiện vật thưởng cho công nhân, viên
chức trong xí nghiệp. Giá cả của các sản phẩm sản xuất theo kế hoạch Nhà nước
giao thì tính theo giá bán buồn công nghiệp, theo chỉ đạo của Nhà nước. Sản
phẩm sản xuất thêm theo kế hoạch, hay tự làm thì tính theo giá vật tư, nguyên
liệu, nhân công… Đây cũng là một bước đổi mới quan trọng trong quản lý công
nghiệp theo tinh thần Nghị quyết trung ương 6.
2. Kết quả của kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1981).
- Về cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam:
Hội nghị 24 (9-1975) có nói: Trong một thời gian nhất định, ở miền Nam
còn có nhiều thành phần kinh tế: Kinh tế quốc doanh xã hội chủ nghĩa, kinh tế
tập thể xã hội chủ nghĩa, kinh tế công tư hợp doanh nửa xã hội chủ nghĩa, kinh
tế cá thể, kinh tế tư bản tư doanh. Cần ra sức sử dụng mọi khả năng lao động, kỹ
thuật, tiền vốn, kinh nghiệm quản lý, để đẩy mạnh sản xuất. Đến Đại hội IV,
Đảng chủ trương: xoá bỏ triệt để quyền chiếm hữu phong kiến về ruộng đất và
những tàn tích bóc lột phong kiến. Xây dựng kinh tế quốc doanh lớn mạnh
nhanh chóng, chiếm ưu thế trong sản xuất và lưu thông phân phối.
Đối với xí nghiệp tư doanh, phải cải tạo xã hội chủ nghĩa chủ yếu bằng
con đường công ty hợp doanh. Xoá bỏ ngay thương nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Chuyển phần lớn tiền thưởng sang sản xuất. Đại hội nêu cao mục tiêu là đến
năm 1980 cơ bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam. Còn miền
9
Bắc thì củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, cải tiến quản lý và chế độ
phân hối, mở rộng và củng cố kinh tế quốc doanh về mọi mặt.
Với phương hướng đó, ta đẩy mạnh cải tạo ở miền Nam, nhất là trong
năm 1977 - 1978, trọng điểm là thương nghiệp. Với công nghiệp tư bản tư
doanh: có 3560 cơ sở, 25 vạn công nhân. Cải tạo bằng hình thức công quản, tịch
thu của tư sản mại bản, lập thành xí nghiệp quốc doanh, có 1.354 cơ sở, với 13
vạn công nhân, bàng 34% dơ sở và 55% số công nhân, 65% giá trị sản lượng
loại nàh.
Cải tạo bằng hình thức công tư hợp doanh: 498 cơ sở với 1,3 vạn công
nhân, chiếm 14,5% số cơ sở, 5,5% số công nhân, 15% giá trị sản lượng. Cải tạo
bằng xí nghiệp hợp tác gia công, đặt hàng, qui tụ thành nhóm sản phẩm: 1600 cơ
sở, 7 vạn công nhân, chiếm 45% số cơ sở, 30% số công nhân, 15% giá trị sản
lượng. Số còn lại, chưa cải tạo có 108 cơ sở, 3,2 vạn công nhân, chiếm 6,5% cơ
sở; 9,5% công nhân, 5% sản lượng (chủ yếu là đường mật, ép dầu, chế biến thực
phẩm, chế biến nhựa, cao su nhỏ, sửa chữa, máy móc nhỏ).
- Với tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp:
lập được 400 tổ đoàn kết, 5000 tổ hợp tác, 500 hợp tác xã. Thu hút 70%
lao động. Riêng ở thành phần Hồ Chí Minh thu hút được 80%.
- Với thương mại:
Bốn năm chuyển 5000 tư sản thương nghiệp, 9 vạn tiểu thương sang sản
xuất, đưa 1,5 vạn sang thương nghiệp xã hội chủ nghĩa. Song lại hình thành số
tiểu thương kinh doanh lương thực, nông sản tới 10 vạn. Đến 1980, Nhà nước đã
nắm được công nghiệp, thương nghiệp. Như 100% năng lượng, 45% cơ khí,
45% xay xát lương thực, 100% bia, nước ngọt, bột ngọt, thốc lá, 45% chế biến
đường, dầu thực vật, 60% dệt, 100% giấy, 80% bột giặt, xà phòng. Thương
nghiệp quốc doanh và hợp tác xã đã nắm được 80% nguồn hàng công nghiệp,
song nông sản chỉ nắm được 25 - 305%.
10
Sau này, đại hội VI đánh giá việc cải tạo xã hội chủ nghĩa thời kỳ này là
nóng vội, không thực hiện quan điểm nhiều thành phần kinh tế. Mặc dù 9-1975
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24 có nói là trong một thời gian nhất định, ở miền
Nam còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, song đến đại hội VI rút lại đến 1980
và Bộ Chính trị (3-1977) rút xuống chỉ trong 2 năm, cuối 1978 phải cải tạo
xong, chỉ còn lại hai thành phần. Tức là lặp lại thời kỳ 1959 - 1960 của miền
Bắc.
Chính sách nhiều thành phần kinh tế vì sao không được thực hiện ở miền
Nam? Đại hội VI chỉ rõ nguyên nhân là do: Tư tưởng nóng vội, chủ quan muốn
nhận thức được sâu sắc đặc điểm từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn là phải quá
thời kỳ quá độ lâu dài, phải biết sử dụng các hình thức trung gian, quá độ, biết
sử dụng các thành phần kinh tế tư bản có lợi cho chủ nghĩa xã hội. Tức là Đảng
ta tuy đã biết: muốn có chủ nghĩa xã hội thì phải tiến hành công nghiệp hoá xã
hội chủ nghĩa để có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Mà như vậy thì không để
duy trì quá lâu thời kỳa nhiều thành phần kinh tế, vì như vậy không có quan hệ
sản xuất mới để tạo điều kiện mở đường cho phát triển lực lượng sản xuất. Theo
tinh thần đó, ta đã cải tạo thật nhanh để công nghiệp hoá. Nóng vội từ đó mà ra.
- Với nông nghiệp:
Miền Bắc đưa hợp tác xã lên quy mô lớn, đỉnh cao, theo hướng tập trung,
chuyên môn hoá, cơ giới hoá. Nghĩa là áp dụng quy trình sản xuất công nghiệp
vào trong nông nghiệp như lập các đội chuyên (đội 2020), các trạm, trại. Năm
1979 miền Bắc tập trung các hợp tác xã nhỏ thành lớn, có 4.154 hợp tác xã quy
mô toàn xã, có hợp tác xã lên tới 1000 ha. Năm 1980, quy mô đội lớn gấp đôi
năm 1970 và bằng hợp tác xã năm 1958. Hàng năm, miền Bắc có 2,4 đến 8,7
vạn ha hoang hoá. Thất thoát vốn, tài sản phổ biến, bộ máy cồng kềnh, xa rời
sản xuất. Nông dân chễ nải với công việc tập thể, chỉ lo cho đất 5% vàtìm cách
khoán chui… Khi hợp tác xã miền Bắc lâm vào trì trệ thì ta lại áp dụng phổ
biến, gấp rút vào miền Nam. Tháng 8/1977. Ban bí thư chỉ thị cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với nông nghiệp miền Nam.
11
Đến đầu 1979 miền Trung, Tây Nguyên cơ bản hợp tác xã xong. Nam Bộ
đạt 35%. Đến 7-1980, miền Nam có 1.518 hợp tác xã, 9350 tập đoàn sản xuất,
thu hút 35,6% hộ. Những nhược điểm của miền Bắc được thể hiện nặng hơn ở
miền Nam, như tập thể hoá tư liệu sản xuất cao, từ 50 đến 95% diện tích đất,
60% sức kéo. Quy mô hợp tác xã bình quan 312 ha, 519 hộ, 1005 lao động. Ta
đầu tư cho nông nghiệp tới 30% ngân sách, song năng suất không tăng mà còn
giảm. 1976 là 22,3 tạ/ha, năm 1977 là 19,4/ tạ ha, năm 1978 là 17,5 tạ/ham ta
phải nhập lương thực.
- Với sản xuất công nghiệp:
Than dự định 10 triệu tấn chỉ đạt 52%, điện 5 try KW chỉ đạt 72%, xi
măng dự kiến 2 triệu tấn chỉ đạt 32%, vải dự định 450 triệu mét chỉ đạt 39%,
giấy dự tính 13 vạn tấn chỉ đạt 37%. Xuất khẩu 320 triệu Rúp-Đô la, nhập 1.526
triệu. Giá năm sau so với năm trước: 1976 là 128%, năm 1977 là 117%, năm
1976 là 120,9%, năm 1979 là 119,4%, năm 1980 là 125%. Nghĩa là giá mỗi năm
tăng lên khoảng 20%. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp 1976 - 1980 chỉ là 0,6%.
Nền kinh tế có chiều hướng đi xuống. Lý do: hậu quả chiến tranh, nên
kinh tế sản xuất nhỏ, thiên tai, hai cuộc chiến tranh biên giới, viện trợ giảm. Chủ
quan là không có thời kỳ ổn định, nóng vội, lãng phí, duy ý chí.
3. Đánh giá:
Nhìn chung, thời kỳh 1976 - 1980, nền kinh tế nước ta ở trạng thái trì trệ,
công nghiệp chỉ tăng 0,6%, nông nghiệp chỉ tăng 1,9%, thu nhập quốc dân chỉ
tăng 0,4%, trong khi dân số tăng 4,5 triệu người. Mất cân đối giữa sản xuất và
tiêu dùng, thu và chi, xuất và nhập, hàng và tiền, đầu tư và hiệu qủa. Đời sống
giảm, tiêu cực tăng, giá cả leo thang, thất nghiệp nhiều.
Nguyên nhân khách quan là: thiên tai, địch phá hoại, nhiệm vụ quốc tế,
nền sản xuất yếu kém (như thời kỳ 1976 - 1980). Chủ quan là về lãnh đạo và
quản lý: chưa thấy hết khó khăn, phức tạp của con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội, chưa thấy hết hậu quả chiến tranh và yếu kém của ta về quản lý kinh tế-xã
12
hội, chưa lường hết phức tạp quốc tế. Do đó đã chủ quan, nóng vội, nặng về quy
mô lớn, tốc độ cao, thiếu cơ sở, thiếu chuẩn bị. Đồng thời lại bảo thủ, trì trệ:
không đánh giá đúng thuận lợi và khả năng về lao động, đất đai, rừng, biển,
hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng, không chịu suy nghĩ tìm biện pháp phát huy
thuận lợi, khả năng mà ỷ lại nước ngoài, duy trì qúa lâu cơ chế quan liêu bao
chấp, chậm thay đổi các chính sách và chế độ kìm hãm sản xuất.
CHƯƠNG II. NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ
CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THỜI KỲ 1982- 1986.
Do sự liên quan chặt chẽ giữa các khâu, các ngành của nền kinh tế, các cải
cách cần thiết cũng được thực hiện trong nông nghiệp (chỉ thị khoán 100, năm
1981) và trong tài chính (cải cách giá 1981). Bên cạnh hiệu quả tích cực: chặn
đứng được đà suy sụp của nền kinh tế những năm 1978 - 1980, làm cho nền kinh
tế có dấu hiệu sống động, các giải pháp này cũng làm nảy sinh ít hiện tượng tiêu
cực. Những quan niệm truyền thống về quá độ lên chủ nghĩa xã hội dù đã rạn
nứt, nhưng vẫn còn tương đối nguyên vẹn, giữ địa vị “chính thống” trong Đại
hội V (3-1982) của Đảng.
Tại đây, những tư tưởng của đại hội IV được khẳng định - Đại hội vẫn
tiếp tục thực hiện đường lối của Đại hội IV mà nòng cốt là trục: chuyên chính vô
sản - làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa - công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, Đại hội đã phê phán tư tưởng chủ qua; nóng vội trong bước đi quá độ và
có sự điều chỉnh cần thiết, xác định “chặng đường đầu tiên” của thời kỳ quá độ ở
Việt Nam và những bước đi tương ứng. Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa vẫn
được tiếp tục; cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm hoàn thiện quan hệ sản xuất ở cả
hai miền vẫn được đẩy mạn. Cụ thể:
1. Đại hội V của Đảng (3-1982) và nhận thức của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã họp từ ngày 15 đến 31-
3-1982 tại Hà Nội. Đại hội họp trong bối cảnh nền kinh tế-xã hội nước ta lâm
vào khủng hoảng ngày một nặng hơn. Tình hình quốc tế cũng phức tạp hơn, nhất
là những diễn biến xấu ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô. Do
13
đó, Đại hội V xác định thời kỳ 1981 - 1985 là rất quan trọng: Khẩu hiệu là “Tất
cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”. Tư duy, nhận thức
về chủ nghĩa xã hội cơ bản là tiếp tục thực hiện đường lối chung và đường lối
kinh tế do Đại hội IV đề ra.
Điểm mới trong tư duy, nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam là: Phải luôn luôn coi xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là
hai nhiệm vụ chiến lược thường xuyên của cách mạng Việt Nam và bổ sung điều
đó vào đường lối chung. Về đường lối kinh tế: điểm mới là quyết định điều
chỉnh việc xây dựng kinh tế và bước đi của công nghiệp hoá. Đó là tập trung sức
phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trân hàng đầu, ra sức phát triển
hàng tiêu dùng, tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng. Quan điểm
đó được bổ sung vào đường lối kinh tế của thời kỳ quá độ.
Đại hội cũng nhấn mạnh trong một thời gian nhất định, miền Nam vẫn
còn 5 thành phần kinh tế (quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, co thể và tư
bản tư nhân). Đồng thời vẫn quyết tâm hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa,
hoàn thành hợp tác hoá công nghiệp với hình thức phổ biến là tập đoàn sản xuất.
Thực chất là Đại hội V vẫn chưa thấy được sự cần thiết phải duy trì nền
kinh tế nhiều thành phần trong thời gian dài.
Đại hội đề ra kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981- 1985) với bốn mục tiêu:
cải thiện đời sống nhân dân, ổn định tình hình lương thực. Tiếp tục xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, hoàn thành cải tạo quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa ở miền Nam; củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh trật tự.
Muốn đạt 4 mục tiêu đó phải đạt 2 yêu cầu: thu nhập đủ tiêu dùng, có tuỹ
luỹ; có xuất khẩu để nhập khẩu.
Nhưng bên cạnh quá trình tiếp tục thực hiện quan điểm, đường lối của Đại
hội IV, có một quá trình liên tục và mạnh mẽ khác tiếp tục tấn công vào cơ chế
quản lý kinh tế cũ, tập trung quan liêu bao cấp, từ sau Nghị quyết Trung ương 6
(9-1979) chỉ đến chỉ thị 25/CP , rồi đỉnh cao là cuộc đột phá giá - lương - tiền
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét