Thứ Tư, 19 tháng 2, 2014

quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu

MỞ ĐẦU
Trong thực tế hiện nay tình trạng xâm phạm quyền sở hữu xảy ra rất đa
dạng và phong phú. Có rất nhiều vụ việc bảy sinh gây bức xúc cho nhiều
chủ sở hữu và việc bảo vệ quyền sở hữu đang là vấn đề được nhiều người
quan tâm. Do đó, việc tìm hiểu về các phương thức bảo vệ quyền sở hữu có
ý nghĩa to lớn trong việc giải quyết những vấn đề nêu trên. Mục đích nghiên
cứu đề tài: “Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu” là nhằm làm rõ thế nào
là bảo vệ quyền sở hữu, các phương thức bảo vệ quyền sở hữu theo Bộ luật
Dân sự hiện nay, những ưu điểm của các phương thức đó, hạn chế của các
phương thức bảo vệ quyền sở hữu và một số phương hướng hoàn thiện.
Nhận thấy tầm quan trọng của đề tài này nên em đã quyết nghiên cứu và làm
rõ đề tài trên. Mong thầy, cô nhận xét và giúp đỡ để bài viết của em thêm
hoàn chỉnh.
1
NỘI DUNG
I. Một số vấn đề về quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu
1. Quyền sở hữu
Quyền sở hữu là một phạm trù pháp lý phản ánh các quan hệ sở hữu trong
một chế độ sở hữu nhất định, quyền sở hữu có thể được hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau:
Theo nghĩa khách quan: quyền sở hữu là tổng hợp các quy phạm pháp luật
do Nhà nước đặt ra và đảm bảo thực hiện, trong đó ghi nhận và đảm bảo cho
chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền sở hữu, quyền chiếm hữu
đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình. Nếu hiểu theo
nghĩa này thì hệ thống pháp luật của Nhà nước CHXHCN Việt Nam bao gồm
nhiều ngành luật khác nhau, mỗi ngành luật sẽ có vai trò riêng trong việc bảo
vệ quyền sở hữu của các chủ thể.
Theo nghĩa chủ quan, chủ thể của quyền sở hữu có các quyền do pháp luật
quy định. Điều 164, BLDS 2005 quy định: “Quyền sở hữu bao gồm quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy
định của pháp luật. Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba
quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản.”
Điều 182, BLDS 2005 quy định: “Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ,
quản lý tài sản.”
Điều 192, BLDS 2005 quy định: “Quyền sử dụng là quyền khai thác công
dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản.”
Điều 195, BLDS 2005 quy định: “Quyền định đoạt tài sản là quyền
chuyển giao quyền sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó.”
2. Bảo vệ quyền sở hữu
2
Pháp luật được coi là công cụ sắc bén và hữu hiệu nhất trong việc bảo vệ
quyền sở hữu, bảo đảm cho chủ sở hữu thực hiện có hiệu quả và hợp lý các
quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt một cách bình thường nhất.
Bảo vệ quyền sở hữu chính là biện pháp tác động bằng pháp luật đối với
hành vi xử sự của con người, ngăn ngừa những hành vi xâm hại đến chủ sở
hữu khi người này hành xử quyền của mình.
Bằng các quy phạm pháp luật, Nhà nước ta đã xác nhận và quy định phạm
vi những quyền năng của một chủ sở hữu đối với tài sản của họ. Mặt khác,
Nhà nước dùng pháp luật như một công cụ pháp lý để bảo vệ các quyền đã
được pháp luật công nhận và ngăn ngừa những hành vi xâm phạm đến quyền
của các chủ sở hữu. Mọi hành vi xâm phạm của con người không phải chủ sở
hữu đều bị coi là hành vi vi phạm pháp luật. Người nào có hành vi xâm phạm
đến quyền sở hữu của của một chủ thể xác định phải chịu những hậu quả pháp
lý do BLDS quy định.
Nhà nước ta sử dụng nhiều ngành luật khác nhau để bảo vệ quyền sở hữu.
Tuy nhiên, mỗi ngành luật bảo vệ quyền sở hữu theo những phương pháp và
cách thức phù hợp với chức năng vốn có của nó.
Luật hành chính bảo vệ quyền sở hữu bằng việc quy định những thể lệ
nhằm quản lí và bảo vệ tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân công dân.
Trong một số trường hợp Nhà nước sử dụng biện pháp cưỡng chế bằng bạo
lực của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với một cá nhân hay tổ chức
nhất định về mặt vật chất hay tinh thần nhằm buộc các cá nhân hay tổ chức
phải thực hiện hoặc không thực hiện những hành vi nhất định đẻ bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác; hoặc người đó phải phục tùng
những hạn chế nhất định đối với tài sản của mình hoặc tự do thân thể nhằm
đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể khác.
Luật hình sự bảo vệ quyền sở hữu bằng việc quy định một số hành vi nhất
định xâm phạm đến quyền sở hữu là tội phạm và quy định mức hình phạt
tương xứng với những loại hành vi phạm tội đó.
3
Luật dân sự bảo vệ quyền sở hữu bằng việc quy định những phương thức
kiên dân sự trước tòa án để chủ sở hữu có thể thông qua đó mà đòi lại tài sản
của mình đang bị người khác chiếm giữ bất hợp pháp; yêu cầu người khác
chấm dứt hành vi cản trở hoặc yêu cầu ngăn chặn khi chủ sở hữu thực hiện
quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp đối với tài sản; đòi người khác bồi
thường thiệt hại.
Như vậy, mỗi ngành luật đều có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền
sở hữu nhưng mỗi ngành luật không bảo vệ quyền sở hữu một cách tách biệt
mà bổ sung, phối hợp lẫn nhau.
II. Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự
Trong thực tế sự xâm phạm quyền sở hữu rất đa dạng và phong phú. Vì
vậy Điều 255 BLDS 2005 đã ghi nhận các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu.
Một trong những phương thức bảo vệ quyền sở hữu đó là việc pháp luật
quy định và công nhân: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền tự
bảo vệ tài sản thuộc sở hữu của mình, tài sản đang chiếm giữ hợp pháp bằng
những biện pháp theo quy định của pháp luật” (Điều 255 BLDS 2005).
Quyền tự bảo vệ của chủ sở hữu còn gắn liền với việc ngăn cản bất kì người
nào có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của mình. Chủ sở hữu còn được
quyền truy tìm, đòi lại tài sản bị người khác chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
không co căn cứ pháp luật.
Khi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp không thể tự mình bảo vệ
quyền sở hữu nếu có sự xâm hại thì họ “… có quyền yêu cầu tòa án, cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu,
quyền chiếm hữu phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật
việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu và yêu cầu bồi thường thiệt
hại” (Điều 255 BLDS).
BLDS ghi nhận và phân biệt nhiều phương thức kiện dân sự khác nhau để
bảo vệ quyền sở hữu. Sự đa dạng của cuộc sống cho chúng ta thấy rằng, sự
xâm phạm đến quyền sở hữu khác nhau cùng với những tình tiết khác nhau.
4
Vì vậy vấn đề là phải chọn phương thức nào cho phù hợp với mức độ và
những tình tiết cụ thể của vụ việc.
1. Kiện đòi lại tài sản (hay kiện vật quyền)
Kiện đòi lại tài sản là việc chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp yêu
cầu tòa án buộc người có hành vi chiếm hữu trái pháp luật phải trả lại tài sản
cho mình. Mục đích của người khởi kiện khi thực hiện phương thức này là
nhằm lấy lại tài sản của mình đang bị người khác chiếm hữu trái pháp luật.
Theo Điều 256, BLDS 2005 quy định:
“Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm
hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp
luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của
mình phải trả lại tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 247 của
Bộ luật này. Trong trường hợp tài sản đang thuộc sự chiếm hữu của người
chiếm hữu ngay tình thì áp dụng Điều 257 và Điều 258 của Bộ luật này.”
• Khi áp dụng phương thức kiện này phải thỏa mãn các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, đối với nguyên đơn: Người kiện đòi lại tài sản phải là chủ sở
hữu của vật và phải chứng minh quyền sở hữu của mình đối với vật đang bị bị
đơn chiếm giữ bất hợp pháp. Nếu nguyên đơn là người chiếm hữu hợp pháp
thông qua hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng phù hợp ý chí của chủ sở hữu
thì người đó phải chứng minh mình là người có quyền chiếm hữu, sử dụng tài
sản đang bị bị đơn chiếm giữ bất hợp pháp. Về nguyên tắc chung: vật đang bị
bị đơn chiếm giữ bất hợp pháp đã rời khỏi chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp
pháp ngoài ý chí của những người này thì có quyền đòi lại tài sản từ người
chiếm hữu bất hợp pháp.
Thứ hai, đối với bị đơn: Phải là người đang chiếm hữu bất hợp pháp đối
với tài sản. Điều kiện này rất quan trọng vì có nhiều khi chủ sở hữu, người
chiếm hữu hợp pháp phát hiện ra người chiếm hữu tài sản của mình lúc trước
nhưng lúc này người chiếm hữu tài sản đó đã trở thành chủ sở hữu của tài sản
do được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu:
5
Khoản 1 Điều 247 BLDS 2005 quy định: “Người chiếm hữu, người được
lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai
trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản
thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.”
Thư ba, tài sản phải còn trong sự chiếm hữu của chủ thể chiếm hữu bất
hợp pháp. Nếu tài sản không còn tồn tại do đã bị mất hoặc bị tiêu hủy thì lúc
này không thể áp dụng được phương thức kiện đòi alij tài sản. Vật hiện còn
được hiểu là còn nguyên trạng thái ban đầu hoặc về cơ bản vẫn còn nhưng đã
bị giảm sút giá trị hoặc đã được làm tăng giá trị.
Thứ tư, không rơi vào các trường hợp pháp luật quy định không phải trả lại
tài sản tại Điều 257 và 258 BLDS 2005.
Điều 257 BLDS 2005 quy định: “ Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản
không phải đăng kí quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình có được động
sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định
đoạt tài sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở
hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường
hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.”. Theo đó, nếu người ngay
tình có được tài sản thông qua giao dịch có đền bù và tài sản đó không phải bị
mất cắp, bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu thì nguyên đơn không thể
khởi kiện đòi lại tài sản.
Điều 258 BLDS 2005 quy định: “Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải
đăng kí quyền sở hữu và bất động sản , trừ trường hợp người thứ ba chiếm
hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với
người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ
sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do
bản án, quyết định bị hủy, sửa.”. Trường hợp một người có được tài sản thông
qua việc mua đấu giá hoặc giao dịch với người đã được cơ quan nhà nước
6
công nhận là chủ sở hữu của tài sản là trường hợp người ngay tình hoàn toàn
không có lỗi họ sẽ được pháp luật bảo vệ.
• Hậu quả pháp lý của việc áp dụng phương thức kiện đòi lại tài sản
Khi phương thức kiện đòi lại tài sản thỏa mãn các điều kiện đặt ra thì
người chiếm hữu tài sản buộc phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu, người chiếm
hữu hợp pháp. Tuy nhiên hậu quả pháp lý sẽ khác nhau trong hai trường hợp
sau:
- Đối với người chiếm hữu, sử dụng, được lợi về tài sản không có căn cứ
pháp luật nhưng ngay tình thì ý chí của họ hoàn toàn ngay thẳng và cần
được pháp luật bảo vệ. Chính vì vậy, những người này có quyền sử dụng
tài sản. Do đó, khi phải trả lại tài sản thì người chiếm hữu, sử dụng ngay
tình không phải hoàn trả hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đó ( Điều 601
BLDS 2005)
- Đối với người đang chiếm hữu tài sản là người chiếm hữu không có căn cứ
pháp luật và không ngay tình thì người đó luôn luôn phải trả lại tài sản
đồng thời phải hoàn trả cả hoa lợi, lợi tức có được trong thời gian chiếm
hữu tài sản cho chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp.
2. Kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật
đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp
Chủ sở hữu có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của
mình, có quyền khai thác lợi ích vật chất của tài sản để thỏa mãn các nhu cầu
trong sinh hoạt cũng như trong sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp
luật. Bằng các quy phạm pháp luật cụ thể, BLDS đã tạo điều kiện để các chủ
sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp thực hiện quyền của mình, bảo vệ các
quyền lợi hợp pháp đó và cấm mọi hành vi cản trở trái pháp luật.
Theo quy định tại Điều 259 BLDS 2005 thì: “Khi thực hiện quyền sở hữu,
quyền chiếm hữu của mình, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền
yêu cầu người có hành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó; nếu
7
không có sự chấm dứt tự nguyện thì có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi vi phạm.”
Theo quy định đó thì khi phát hiện hành vi xâm phạm tới việc thực hiện
các quyền năng của mình thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có một
trong hai quyền sau:
- Tự mình yêu cầu người có ành vi cản trở trái pháp luật phải chấm dứt hành
vi đó: Ngay khi phát hiện ra có hành vi xâm phạm hoặc khả năng xâm
phạm quyền, lợi ích chính đáng của mình, chủ sở hữu, người chiếm hữu
hợp pháp có quyền yêu cầu người xâm phạm chấm dứt hành vi mà không
cần chờ bất cứ một thủ tục nào. Biện pháp tự bảo vệ này mang tính kịp
thời, tạo khả năng ngăn chặn hành vi xâm phạm ngay từ đầu, tránh được
vụ việc xâm phạm trở nên nghiêm trọng hơn.
- Yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành
vi xâm phạm chấm dứt hành vi đó: Nếu biện pháp tự yêu cầu của chủ thể
đạt hiệu quả không cao và bên xâm phạm không tự nguyện, thiện chí chấm
dứt hành vi xâm phạm, khắc phục hậu quả đã gây ra thì pháp luật cho phép
chủ sở hữu có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác
giải quyết. Khi đó các cơ quan này sẽ sử dụng quyền lực Nhà nước để
buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp
pháp của người khác phải chấm dứt hành vi vi phạm.
Mục đích chính của phương thức này là nhằm đảm bảo để chủ sở hữu hoặc
người chiếm hữu hợp pháp được sử dụng và khai thác công dụng của tài sản
một cách bình thường. Do đó, khi phương thức kiện này được áp dụng thì sẽ
mang lại hậu quả pháp lý là người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của
người khác bị buộc phải chấm dứt hành vi xâm phạm.
3. Kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại (kiện trái quyền)
Điều 260 BLDS 2005 quy định: “Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp
có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu
của mình bồi thường thiệt hại.”
8
Kiện đòi bồi thường thiệt hại về tài sản là việc chủ sở hữu hoặc người
chiếm hữu hợp pháp yêu cầu tòa án buộc người có hành vi xâm phạm quyền
sở hữu phải bồi thường thiệt hại cho mình.
Trong trường hợp một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tới tài
sản của người khác thì chủ sở hữu của tài sản có quyền khởi kiện tới tòa án
yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp này, chủ sở hữu hoặc người
chiếm hữu hợp pháp đã không thể kiện đòi lại tài sản do tài sản đã bị hư hỏng
hoặc đang nằm trong sự chiếm hữu của chủ thể khác không xác định được
hoặc người chiếm hữu tài sản đó là người chiếm hữu không có căn cứ pháp
luật nhưng ngay tình và không phải trả lại tài sản.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản cho chủ sở hữu hoặc người
chiếm hữu hợp pháp có thể đặt ra đối với trường hợp bồi thường thiệt hại theo
hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng.
Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng thì các bên có thể
thỏa thuận về điều kiện bồi thường, mức bồi thường, phương thức bồi
thường… trong hợp đồng và khi có tranh chấp xảy ra, cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền sẽ căn cứ vào sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng để giải
quyết.
Đối với trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng thì điều kiện để có thể áp
dụng biện pháp khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm phạm
gồm:
Thứ nhất, có thiệt hại xảy ra: đây là điều kiện đầu tiên, cần thiết để áp
dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại bởi lẽ trách nhiệm bồi thường thiệt hại
được đặt ra là nhằm khôi phục thiệt hại cho người bị thiệt hại. Do đó, nếu
không có thiệt hại xảy ra thì cũng không thể buộc người có hành vi xâm phạm
phải bồi thường thiệt hại.
Thứ hai, có hành vi trái pháp luật: Nếu hành vi thiệt hại được coi là hành
vi hợp pháp như trường hợp người gây thiệt hại đang thi hành công vụ, gây
9
thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng haowcj tình thế cấp thiết thì
người gây thiệt hại sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại
xảy ra: Hành vi trái pháp luật phải là nguyên nhân và tất yếu dẫn đến thiệt hại
xảy ra về tài sản thì người có hành vi đó mới phải chịu trách nhiệm bồi
thường. Nếu nguyên nhân không phải do hành vi mà có thể tài sản đó tự bị hư
hỏng do hết thời gian sử dụng hoặc do kém chất lượng… thì người htwcj hiện
hành vi đó sẽ không phải bồi thường thiệt hại mà chủ sở hữu hoặc người
chiếm hữu hợp pháp sẽ phải chịu rủi ro.
Thứ tư, có lỗi của người gây thiệt hại: người gây thiệt hại chỉ phải bồi thiệt
hại nếu có lỗi gây ra thiệt hại trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu
gây ra thiwwtj hại trong trường hợp bất khả kháng hoặc thiệt hại xảy ra là
hoàn toàn do lỗi của chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp thì người
gây ra thiệt hại sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, trong trường hợp tài sản bị gây thiệt hại không
phải do hành vi của con người gây ra thì chủ sở, người chiếm hữu hợp pháp
vẫn có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu chứng minh được thiệt hại xảy
ra nguyên nhân là do chính tài sản đó gây ra.
Hậu quả pháp lý của việc áp dụng phương thức kiện yêu cầu bồi
thường thiệt hại:
Nếu các bên không có thỏa thuận gì khác về mức bồi thường, phương thức
bồi thường thì thiệt hại về tài sản được bồi thường toàn bộ theo nguyên tắc
thiệt hại bao nhiêu bồi thường bấy nhiêu và có thể bao gồm những thiệt hại
sau đây:
+ Thiệt hại do tài sản bị mất
+ Thiệt hại do tài sản bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng
+ Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản
+ Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại
10
III. Những ưu điểm của các phương thức bảo vệ quyền sở hữu theo Bộ
luật Dân sự
Thứ nhất, đây là phương thức mang tính thực tế rất lớn. Tính thực tế này
xuất phát từ chỗ những hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu thông thường
nảy sinh trong đời sống xã hội, xâm phạm tới các quyền tài sản của các chủ
thể và do vậy chủ yếu thuộc sự điều chỉnh của pháp luật dân sự. Do xuất
phát điểm là các hành vi xâm phạm quyền sở hữu chủ yếu thuộc pháp luật
dân sự nên biện pháp kiện dân sự cũng được áp dụng phổ biến hơn. Hơn
nữa, mục đích lớn nhất của chủ thể khi sử dụng phương thức kiện dân sự
nhằm bảo vệ quyền sở hữu của mình chính là việc khôi phục lại tình trạng
ban đầu (tình trạng trước khi bị vi phạm) về mặt vật chất hay chính là đảm
bảo sự nguyên vẹn của tài sản cho chủ sở hữu hoặc cho người chiếm hữu
hợp pháp. Sau khi áp dụng các phương thức bảo vệ quyền sở hữu bằng biện
pháp dân sự, chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp có thể khôi phục
lại trạng thái tài sản ban đầu hoặc được bù đắp về mặt vật chất cho những
xâm phạm đến quyền sở hữu của họ, đáp ứng được lợi ích cơ bản của việc
bảo vệ quyền sở hữu của các chủ thể được nhà nước ghi nhận.
Thứ hai, phương thức kiện dân sự được áp dụng một cách rộng rãi hơn các
biện pháp khác. Biện pháp kiện dân sự được áp dụng rộng rãi bởi lẽ: việc
xâm phạm tài sản mang tính chất dân sự diễn ra phổ biến; các chủ thể có thể
áp dụng các phương thức kiện dân sự một cách dễ dàng bằng việc yêu cầu
cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấm dứt hành vi vi phạm hoặc yêu cầu
chủ thể vi phạm bồi thường thiệt hại.
Thứ ba, phương thức kiện dân sự tạo điều kiện rất thuận lợi và dễ dàng cho
mọi chủ thể có quyền sở hữu bị xâm phạm tự mình chủ động thực hiện
phương thức này. Đây là một điểm khác biệt rất lớn so với các phương thức
khác. Phương thức kiện dân sự vì tuân theo thủ tục tương đối nhanh gọn,
khắc phục nhanh chóng tình trạng như ban đầu, hơn nữa khi các chủ thể có
thể đã đệ đơn yêu cầu toà án ra quyết định buộc chủ thể có hành vi xâm
11
phạm quyền sở hữu chấm dứt hành vi, bồi thường thiệt hại hoặc đòi lại tài
sản cho mình nhưng vẫn có thể được quyền thoả thuận và rút lại đơn kiện.
IV. Hạn chế của việc áp dụng các phương thức kiện bảo vệ quyền sở hữu
trong thực tế và một số phương hướng hoàn thiện
1. Hạn chế của việc áp dụng các phương thức kiện bảo vệ quyền sở hữu
trong thực tế
Thứ nhất, Về hiệu quả của các phương thức dân sự: trong nhiều trường
hợp hiệu quả của các phương thức dân sự trong việc bảo vệ quyền sở hữu trên
thực tế rất thấp. Trong các phương thức dân sự, tự bảo vệ là biện pháp được
các chủ thể áp dụng phổ biến nhất nhưng do thiếu tính cưỡng chế và quyền
lực nhà nước nên trên thực tế khi có hành vi xâm phạm các chủ thể vẫn phải
áp dụng đồng thời các biện pháp khác để bảo vệ quyền sở hữu của mình.
Thứ hai, Về sự tác động của công tác thi hành án: hiệu quả của việc bảo vệ
quyền sở hữu bằng biện pháp dân sự gắn liền với việc thi hành án dân sự nên
trên thực tế bị ảnh hưởng rất nhiều bởi công tác thi hành án dân sự cũng là
một hạn chế trong việc bảo vệ quyền lợi của các chủ sở hữu hợp pháp, người
chiếm hữu hợp pháp trên thực tế.
Thứ ba, Về quy định người chiếm hữu hợp pháp: Chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt là ba quyền năng thuộc quyền sở hữu. Bộ luật Dân sự chỉ phân loại
chiếm hữu thành hai hình thức là chiếm hữu có căn cứ pháp luật và chiếm hữu
không có căn cứ pháp luật. Như vậy, không có quy định trong Bộ luật Dân sự
đề cập đến chiếm hữu hợp pháp là chiếm hữu của chủ thể nào. Theo cách hiểu
thông thường, chiếm hữu hợp pháp là chiếm hữu có căn cứ pháp luật và
chiếm hữu bất hợp pháp là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. Nếu xét trên
mặt ngữ nghĩa, cách hiểu này cũng chưa được thoả đáng. ‘Bất hợp pháp’ có
nghĩa là không phù hợp quy định của pháp luật. ‘Không có căn cứ pháp luật’
là không tồn tại quy định nào của pháp luật để dựa vào. Hai ý nghĩa này
không phải lúc nào cũng trùng khớp. Trong thực tế, sẽ có những trường hợp,
sự chiếm hữu là không dựa trên quy định nào của pháp luật nhưng nó không
12
trái với nguyên tắc chung của luật. Ví dụ với một số trường hợp người được
lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật có nên xác định là chiếm hữu bất hợp
pháp hay không? Đặt giả thiết là cách hiểu này hoàn toàn hợp lý và chính xác
về mặt ngữ nghĩa, quy định tại Điều 260 BLDS cũng vẫn tồn tại vấn đề cần
xem xét. Nếu chiếm hữu hợp pháp là chiếm hữu có căn cứ pháp luật thì người
chiếm hữu hợp pháp chính là chủ sở hữu và người không phải chủ sở hữu
trong một số trường hợp đã nêu tại Điều 183. Điều 260, BLDS 2005 ghi rõ:
‘Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người có hành vi
xâm phạm quyền sở hữu, quyền chiếm hữu của mình bồi thường thiệt hại”.
Vậy, “chủ sở hữu” với tư cách là người chiếm hữu hợp pháp (Điều 183) và
“chủ sở hữu” nói riêng (Điều 260) có trùng nhau hay khác nhau?
Thứ tư, Về việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình: Người thứ ba
ngay tình được yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại (giá trị đòi bồi thường là giá
trị của giao dịch mà họ đã xác lập và các thiệt hại khác nếu có như hệ số trượt
giá của tài sản…) từ người đã trực tiếp chuyển giao tài sản cho mình. Quy
định này hoàn toàn lô gíc về mặt lý thuyết: tuy mục đích trong giao dịch đã
xác lập không đạt được (họ muốn sở hữu tài sản nhưng nay tài sản đã phải trả
về cho chủ sở hữu) nhưng họ được quyền đòi lại những gì đã mất từ người đã
trực tiếp xác lập giao dịch; nhưng xét dưới góc độ thực tế thì đây không phải
là quy định mang tính lý tưởng. Bởi lẽ, chỉ có thể thi hành quy định này trên
thực tế nếu thoả mãn được hai điều kiện: 1. tìm được người đã chuyển giao tài
sản đó cho người thứ ba ngay tình; 2. người phải bồi thường có khả năng tài
chính và tự nguyện thực hiện nghĩa vụ. Điều kiện thứ 1 là khó thực hiện được
bởi vốn dĩ họ là người có động cơ tham lam, không trong sáng nên sau khi
thực hiện giao dịch xong, đạt được lợi ích mong muốn họ thường tìm cách
xoá mọi tin tức để tránh trách nhiệm sau này. Điều kiện thứ 2 phụ thuộc vào
điều kiện thứ nhất có tồn tại hay không và cũng thường gặp những phức tạp
như: người phải thi hành nghĩa vụ không có tiền để bồi thường hoặc họ tìm
cách biển thủ tài sản để chây ì không chịu thực hiện nghĩa vụ.
13
Thứ năm, Về việc đăng kí tài sản của chủ sở hữu: trong thực tế tài sản chung
của vợ chồng của hộ gia đình thường được đăng kí dưới tên của vợ hoặc
chồng, tài sản của gia đình thường đăng kí dưới tên của chủ hộ. Khi xảy mua
tài sản người thứ ba ngay tình không thể biết được đó là tài sản chung do đó
nếu áp dụng các điều khoản như quy định của pháp luật hiện hành sẽ chưa đủ
cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho các chủ thể.
2. Một số phương hướng hoàn thiện
Thứ nhất, cần nâng cao hiệu quả của các phương thức kiện dân sự bảo vệ
quyền sở hữu trong thực tế bằng cách đẩy mạnh công tác thi hành án dân sự
trong thực tiễn
Thứ hai, cần hoàn thiện các quy định về người chiếm hữu, pháp luật cần
quy định rõ thế nào là người chiếm hữu hợp pháp, bất hợp pháp. Trong bộ
luật dân sự chỉ quy định về người chiếm hữu có căn cứ pháp luật và không có
căn cứ pháp luật, và trong nhiều trường hợp “bất hợp pháp” và “không có căn
cứ pháp luật” hai ý nghĩa này lúc nào không phải cũng trùng khớp với nhau
nên cần phải quy định thêm trong luật.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về đăng kí tài sản. Cụ thể trong trường hợp
người thứ ba ngay tình mua tài sản có đăng kí nhưng không biết tài sản đó là
tài sản chung (có thể là tài sản chung của vợ, chồng, hộ gia đình và để cho
một người đứng tên đăng kí quyền sở hữu) và do đó khi có tranh chấp xảy ra
pháp luật khó có thể bảo vệ quyền lợi của người thứ ban gay tình.
Thứ tư, cần có quy định bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình mạnh
mẽ hơn. Trong thực tế hiện nay việc lưu thông hàng hóa là tự do và thị trường
hàng hóa phong phú đa dạng và rộng lớn người mua không thể biết được
nguồn gốc tài sản cho nên pháp luật cần phải bảo vệ họ. Ngoài ra trong thực
tế còn có trường hợp chủ sở hữu thông đồng với người chiếm hữu hợp pháp
để gây thiệt hại cho người thứ ba nên pháp luật nên có những quy định cụ thể
cho việc này.
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét