Thứ Tư, 19 tháng 2, 2014
giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Thiết bị điện thoại
tài sản vẫn được quản lý dưới hình thức tiền tệ vì đó là số vốn ứng trước
của doanh nghiệp.
Hình thái giá trị: Vốn được biểu hiện dưới hình thái giá trị là tiền
trong các quỹ tiền mặt dùng để phục vụ cho sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần một lượng vốn nhất định ngay từ
lúc thành lập để làm thủ tục đăng ký kinh doanh hay mua sắm trang thiết bị
ban đầu, sau đó thì phải có vốn để chi cho quá trình tồn tại và phát triển.
Như vậy, vốn có thể biểu hiện dưới nhiều hình thái vật chất hay phi vật
chất khác nhau. Tuy nhiên, dù được thể hiện dưới hình thái nào thì vốn của
doanh nghiệp cũng được sử dụng theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển
sau khi hoạt động sản xuất kinh doanh kết thúc.
1.1.2 Phân loại.
1.1.2.1 Căn cứ vào nguồn hình thành.
Căn cứ vào nguồn hình thành của vốn ta có thể xem vốn dưới hai
hình thức, đó là vốn chủ sở hữu và vốn đi vay (nợ).
a/ Vốn chủ sở hữu, bao gồm:
* Vốn góp ban đầu: Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ
doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông-
chủ sở hữu góp, hay do chính các thành viên, chủ doanh nghiệp đóng góp.
Nói chung hình thức sở hữu của doanh nghiệp sẽ quyết định tính chất và
hình thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp. Cụ thể đối với doanh nghiệp
Nhà nước thì vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà nước. Chủ sở
hữu của các doanh nghiệp Nhà nước là Nhà nước. Đối với các công ty cổ
phần thì phần vốn góp ban đầu do các cổ đông của công ty đóng góp. Các
cổ đông là chủ sở hữu của công ty, chịu trách nhiệm về phần vốn của mình
đã đóng góp. Đối với các công ty trách nhiệm hữu hạn, số vốn này có thể
do các thành viên đóng góp và được ghi vào điều lệ của công ty. Còn đối
5
với doanh nghiệp tư nhân thì vốn do chủ doanh nghiệp bỏ ra, trực tiếp điều
hành hoạt động hoặc thuê người điều hành hoạt động nhưng vẫn chịu trách
nhiệm về phần vốn của mình.
* Vốn từ lợi nhuận không chia: Quy mô số vốn ban đầu của doanh
nghiệp là một yếu tố quan trọng. Tuy nhiên để phát triển và cạnh tranh
trong nền kinh tế thị trường, các doanh phải luôn đòi hỏi tăng nguồn vốn để
đầu tư phát triển và mở rộng quy mô. Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia-
nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và
khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì sử dụng vốn này doanh nghiệp sẽ
giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Nhiều doanh
nghiệp đã coi trọng chính sách tái đầu tư bằng lợi nhuận để lại, họ đặt ra
mục tiêu phải có một khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng
nhu cần vốn ngày càng tăng. Việc sử dụng nguồn vốn tái đầu tư từ lợi
nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang
hoạt động có hiệu quả, thu được lợi nhuận và được phép tiếp tục đầu tư.
* Vốn từ việc phát hành cổ phiếu: việc sử dụng vốn từ việc phát hành
cổ phiếu là một kế hoạch tài chính rất quan trọng trong quá trình hoạt động
sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp. Phát hành cổ phiếu được gọi là
hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp. Việc phát hành cổ phiếu bao
gồm phát hành cổ phiếu thường và phát hành cổ phiếu ưu tiên. Cổ phiếu
thường là loại cổ phiếu thông dụng hơn cả vì nó có ưu thế trong việc phát
hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng
khoán.
b/ Vốn đi vay.
Để bổ sung cho quá trình sản xuất- kinh doanh, doanh nghiệp có thể
sử dụng vốn đi vay từ các nguồn: tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại
và vay thông qua phát hành trái phiếu. Có thể nói vốn vay ngân hàng là một
trong những nguồn vốn quan trọng nhất cho việc sử dụng vốn. Không một
6
doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử dụng tín dụng
thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương
trường. Nhưng việc sử dụng vốn đi vay từ ngân hàng cũng có những hạn
chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, sự kiểm soát của
ngân hàng và chi phí sử dụng vốn. Việc sử dụng nguồn vốn tín dụng
thương mại hay tín dụng của người cung cấp phụ thuộc vào mối quan hệ
hình thành trong quá trình mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp.
Việc tận dụng được nguồn vốn này có ảnh hưởng rất lớn đối với hoạt động
kinh doanh sản xuất của doanh nghiệp cũng như hoạt động kinh doanh về
phía nhà cung cấp. Việc sử dụng vốn từ tín dụng thương mại là một cách
thức sử dụng hợp lý vì chi phí của nguồn vốn này rẻ, tiện dụng và linh hoạt
trong kinh doanh; hơn nữa nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ hợp
tác kinh doanh một cách lâu bền. Đối với việc sử dụng vốn thông qua phát
hành trái phiếu cũng cần được các doanh nghiệp quan tâm. Bởi sử dụng
nguồn vốn này có liên quan đến chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng
lưu hành của trái phiếu. Trên thị trường tài chính ở nhiều nước thường lưu
hành các loại trái phiếu như trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có lãi
suất thả nổi, trái phiếu có thể thu hồi và chứng khoán có thể chuyển đổi.
1.1.2.2 Căn cứ đặc điểm tuần hoàn của vốn.
Vốn được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản của doanh nghiệp.
Các tài sản sẽ trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh
doanh và giá trị của chúng sẽ được chuyển dần vào giá trị của sản phẩm,
hàng hoá dưới dạng hao phí lao động. Do đó chu chuyển tuần hoàn của vốn
sẽ khác nhau. Dựa vào đặc điểm này, vốn được phân làm hai loại: vốn cố
định và vốn lưu động.
a/ Vốn cố định: Vốn cố định trong doanh nghiệp được biểu hiện dưới ba
hình thức, đó là giá trị tài sản cố định, giá trị các khoản đầu tư dài hạn, giá
trị chi phí xây dựng cơ bản dở dang.
7
* Tài sản cố định: được hiểu là những tài sản có giá trị, có thời gian
sử dụng dài, tồn tại và phục vụ cho kinh doanh của doanh nghiệp qua nhiều
chu kỳ kinh doanh. Đây là bộ phận tài sản chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài
sản của doanh nghiệp và nắm giữ vai trò là một trong những tư liệu lao
động chủ yếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Quá trình vận động của
tài sản cố định cho thấy thời gian chu chuyển của vốn cố định rất dài.
Thường thì vốn cố định hoàn thành một vòng chu chuyển khi giá trị tài sản
cố định đã chuyển dịch hết vào sản phẩm hàng hoá dịch vụ sau nhiều chu
kỳ sản xuất kinh doanh. Do đó doanh nghiệp vừa phải quản lý giá trị tài sản
cố định, vừa phải quản lý thời gian sử dụng của chúng một cách có hiệu
quả để từ đó khai thác tối đa năng lực sản xuất kinh doanh và xác định
đúng nhân tố ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định.
* Đầu tư dài hạn: là những khoản đầu tư của doanh nghiệp ra bên
ngoài với thời gian thu hồi vốn từ một năm trở lên. Các khoản đầu tư này
được thực hiện dưới nhiều hình thức như: mua chứng khoán của các đơn vị
khác, cho vay dài hạn, cho thuê dài hạn, góp vốn liên doanh dài hạn, v.v
Các khoản đầu tư này đã góp phần quan trọng giúp doanh nghiệp tránh tình
trạng ứ đọng vốn, tạo thêm thu nhập, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và
thực hiện các mục đích khác như xâm nhập các công ty cổ phần niêm yết
trên các thị trường chứng khoán
* Chi phí đầu tư xây dựng cơ bản dở dang: Trong suốt quá trình hoạt
động kinh doanh sản xuất của mình, các doanh nghiệp cần phải tính và
hạch toán đến các khoản chi phí xây dựng cơ bản dở dang. Đây là bộ phận
vốn đã được sử dụng đầu tư nhằm tạo ra tài sản cố định cho doanh nghiệp
nhưng hiện tại quá trình xây dựng cơ bản chưa hoàn thành. Có lúc bộ phận
này chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng vốn của doanh nghiệp. Bộ phận này
sẽ chuyển thành tài sản cố định của doanh nghiệp khi kết thúc quá trình đầu
tư xây dựng cơ bản.
8
Nhìn chung, ba hình thức trên cùng biểu hiện về mặt giá trị cấu thành
vốn cố định của doanh nghiệp và ba bộ phận này sẽ luân phiên chuyển hoá
cho nhau trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Sự thay đổi như thế nào và tỷ trọng của các thành phần này ra sao
sẽ phụ thuộc vào các quyết định đầu tư và sử dụng vốn của các nhà quản lý
doanh nghiệp.
b/ Vốn lưu động: Vốn lưu động đóng một vai trò rất lớn trong sự tồn tại và
phát triển đối với doanh nghiệp. Vốn lưu động là số tiền ứng trước về tài
sản lưu động để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục.
Đặc điểm cơ bản của vốn lưu động là nó tham gia vào quá trình sản
xuất kinh doanh dưới hình thức đối tượng lao động, không ngừng vận động
và luôn thay đổi hình thái biểu hiện. Giá trị của nó được dịch chuyển một
lần vào giá trị hàng hoá và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau mỗi chu kỳ
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy thời gian chu chuyển
của vốn lưu động sẽ nhanh hơn vốn cố định.
Vốn lưu động là điều kiện không thể thiếu được trong quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy trong quản lý cần xác định đúng
đắn giá trị hợp lý của vốn lưu động và các nguồn bù đắp để cung cấp kịp
thời khi cần thiết. Bên cạnh đó, người quản lý phải theo sát sự dịch chuyển
của vốn lưu động bằng cách thu hồi nhanh và có kế hoạch sử dụng hợp lý ở
các khâu tiếp theo. Cần tăng nhanh vòng quay, tránh ứ đọng lãng phí vốn
lưu động, đó là một trong những hoạt động cần thiết cho sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp.
Để góp phần vào việc sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả vốn lưu động
nhằm đáp ứng các yêu cầu của quá trình sản xuất kinh doanh, người ta sắp
xếp vốn lưu động thành từng nhóm theo những tiêu thức nhất định:
* Căn cứ vào đặc điểm chu chuyển của vốn lưu động, sẽ có các hình
thức sau: vốn bằng tiền, vốn trong khâu dự trữ, chi phí trả trước, các khoản
9
phải thu, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản thế chấp, ký cược,
ký quỹ ngắn hạn và các vốn lưu động khác.
* Căn cứ vào các quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp thì vốn lưu động được chia thành: vốn lưu động trong khâu dự trữ,
vốn lưu động trong khâu sản xuất, vốn lưu động trong khâu lưu thông.
Dựa vào cách phân loại trên, ta có thể biết được tình trạng sử dụng
và phân bổ vốn lưu động trong từng khâu sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Từ đó tiến hành các hoạt động để rút ngắn thời gian luân chuyển và
sử dụng hợp lý vốn lưu động.
1.1.2.3 Căn cứ vào hình thức tồn tại và huy động.
Dựa vào tiêu thức này, người ta chia vốn ra làm hai loại: Vốn thường
xuyên và vốn tạm thời.
a/ Vốn thường xuyên: bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản vay dài hạn.
Đây là nguồn vốn có tính chất ổn định, chi phí vốn thấp mà doanh nghiệp
có thể sử dụng. Thông thường các doanh nghiệp sử dụng vốn này để đầu tư
vào tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động thường xuyên cần thiết
cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này mang tính
chất ổn định và dài hạn, tuy vậy không phải doanh nghiệp nào cũng có thể
có được nguồn vốn này để đáp ứng đầy đủ nhu cầu sản xuất kinh doanh của
mình.
b/ Vốn tạm thời: đây là nguồn vốn có tính chất tạm thời mà doanh nghiệp
có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn trong khoảng thời gian ngắn phát
sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn
này thường được huy động từ vay ngắn hạn ngân hàng hoặc các tổ chức tín
dụng khác. Nguồn vốn này đôi khi rất quan trọng, bởi doanh nghiệp cần
đáp ứng nhu cầu cấp thiết với thời gian huy động vốn nhanh chóng và
chính xác.
1.1.2.4 Căn cứ vào thời gian sử dụng.
10
Nhìn trên góc độ thời gian sử dụng của vốn, vốn được chia làm hai
thành phần tiêu biểu, đó là thành phần vốn ngắn hạn và thành phần vốn
trung, dài hạn.
a/ Vốn ngắn hạn: vốn ngắn hạn của doanh nghiệp bao gồm chủ yếu các
khoản nợ ngắn hạn, các khoản phải trả, phải nộp, các khoản chậm trả. Bên
cạnh đó là các khoản vốn có được do cầm cố thế chấp tài sản. Nhìn chung
đây cũng là khoản vốn quan trọng nhưng chiếm tỷ trọng không lớn trong
tổng vốn của doanh nghiệp so với tỷ trọng của phần vốn trung và dài hạn.
Sử dụng phần vốn này, doanh nghiệp cần cân nhắc về chi phí vốn và khả
năng hoàn trả trong một thời gian ngắn.
b/ Vốn trung và dài hạn: đây là thành phần thường chiếm một tỷ trọng lớn
trong tổng vốn của doanh nghiệp. Vốn này có tính chất lâu dài và bền
vững. Tuy nhiên sử dụng vốn này thì chi phí vốn cũng không nhỏ. Vốn
trung và dài hạn của doanh nghiệp bao gồm chủ yếu là vốn đi vay dài hạn
từ ngân hàng hay các tổ chức tín dụng, vốn góp của các cổ đông hay vốn từ
lợi nhuận không chia. Việc sử dụng vốn này cũng đòi hỏi các nhà điều
hành doanh nghiệp cân nhắc và có kế hoạch hợp lý, tránh lãng phí, đầu tư
không hiệu quả.
Có thể nói rằng việc phân loại vốn là hết sức quan trọng đối với yêu
cầu của quản lý vốn hiện nay. Phân loại vốn mới giúp cho các nhà quản lý
tài chính nắm bắt được rõ ràng về sự biến động đối với các thành phần làm
nên cơ cấu của vốn. Phân loại vốn cũng giúp cho hoạt động tài chính của
doanh nghiệp được minh bạch hơn, và phân loại vốn giúp cho quá trình
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cụ thể hơn, chi tiết hơn và chính xác hơn.
Tìm hiểu được vai trò và nội dung của công việc phân loại vốn, chúng ta sẽ
muốn hiểu hơn về đặc điểm của vốn trong doanh nghiệp hiện nay.
1.1.3 Đặc điểm của vốn.
11
Thứ nhất, vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định, có
nghĩa là vốn được biểu hiện bằng giá trị của tài sản hữu hình và vô hình của
doanh nghiệp. Thứ hai, vốn phải vận động sinh lời, đạt được mục tiêu kinh
doanh của doanh nghiệp. Thứ ba, vốn phải được tích tụ tập trung đến một
lượng nhất định, có như vậy mới có thể phát huy tác dụng để đầu tư vào
sản xuất kinh doanh. Thứ tư, vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định,
không thể có đồng vốn vô chủ và không ai quản lý. Thứ năm, vốn được
quan niệm như một hàng hóa đặc biệt, có thể mua bán quyền sử dụng vốn
trên thị trường. Ngoài ra vốn còn có một số đặc điểm khác như vốn có giá
trị về mặt thời gian (sức mua của những đồng tiền ở những thời điểm khác
nhau). Điều này rất có ý nghĩa khi bỏ vốn vào đầu tư và tính đến hiệu quả
của đồng vốn mang lại. Vốn được biểu hiện bằng tiền và được đưa vào quá
trình sản xuất, kinh doanh. Vốn cũng có thể mang tính chất tiềm năng, đó
là những tài sản chưa được sử dụng cho mục đích kinh doanh, do đó cần
khai thác những tiềm năng của các tài sản còn chưa được sử dụng.
1.1.4 Vai trò của vốn.
Qua việc xem xét, tìm hiểu khái niệm về vốn, ta có thể thấy vốn là
tiền đề không thể thiếu cho mọi hoạt động của doanh nghiệp. Kết quả
cho thấy trong hoạt động thực tế, một trong những vấn đề đáng lo ngại
nhất làm các nhà điều hành doanh nghiệp phải đau đầu, đó là vấn đề về
vốn.
Thứ nhất vốn là điều kiện đầu tiên đảm bảo cho sự ra đời của
doanh nghiệp. Trước đây, Nhà nước quy định vốn pháp định đối với hầu
hết các doanh nghiệp thì nay điều luật về vốn pháp định đã được bỏ mà
chỉ yêu cầu đối với một số ngành nghề kinh doanh nhất định. Tuy vậy
điều đó không có nghĩa là doanh nghiệp khi mới thành lập không cần
đến vốn. Trang trải các chi phí thành lập doanh nghiệp, mua sắm trang
thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng cần thiết,
chuẩn bị các cơ sở vật chất thiết yếu, tất cả những việc đó đều cần đến
12
một lượng vốn không nhỏ để doanh nghiệp ra đời và có thể đi vào hoạt
động.
Thứ hai, trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là một trong
những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp.
Vốn không những đảm bảo khả năng mua sắm máy móc thiết bị, dây
truyền công nghệ để phục vụ cho quá trình sản xuất mà còn đảm bảo cho
hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra thường xuyên liên tục.
Thứ ba, vốn là yếu tố quan trọng quyết định năng lực sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp và xác lập vị thế của doanh nghiệp trên
thương trường. Điều này càng thể hiện rõ trong nền kinh tế thị trường
hiện nay với sự cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp phải không ngừng
cải tiến máy móc thiết bị, đầu tư hiện đại hóa công nghệ, thực hiện các
hoạt động marketing, quảng cáo, xây dựng thương hiệu, v.v tất cả
những yếu tố này muốn đạt được đòi hỏi doanh nghiệp phải có một
lượng vốn đủ lớn.
Thứ tư, vốn cũng là yếu tố quyết định đến việc mở rộng phạm vi
hoạt động của doanh nghiệp. Có vốn giúp doanh nghiệp đầu tư mở rộng
sản xuất, quảng bá sản phẩm dịch vụ của mình, thâm nhập vào thị trường
mới, từ đó mở rộng thị trường tiêu thụ, nâng cao uy tín của doanh nghiệp
trên thương trường.
Nhận thức được vai trò quan trọng của vốn như vậy, doanh nghiệp
cần phải có những biện pháp hữu hiệu huy động đủ vốn cho doanh
nghiệp và có kế hoạch sử dụng vốn một cách hợp lý đảm bảo hoạt động
sản xuất kinh doanh có hiệu quả và đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Trong những nền kinh tế khác nhau, tầm quan trọng của vốn cũng được
thể hiện ở các mức độ khác nhau. Nếu trong thời kỳ bao cấp, việc sử
dụng vốn để sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả không cao cho các
doanh nghiệp vì viêc cấp vốn tràn lan, thiếu yếu tố cạnh tranh, thì nay,
13
trong nền kinh tế thị trường, có sự định hướng theo xã hội chủ nghĩa, các
doanh nghiệp luôn luôn phải vận động, tìm tòi để sử dụng vốn có hiệu
quả nhất đem lại doanh thu và lợi nhuận đảm bảo sự tồn tại, phát triển
của doanh nghiệp mình.
Như vậy vốn có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất
phát triển, giúp các doanh nghiệp tồn tại và đứng vững trên thị trường.
Việc sử dụng vốn kém hiệu quả sẽ là yếu tố loại doanh nghiệp ra khỏi
thương trường, nhất là trong điều kiện hiện nay, khi mà việc sản xuất
kinh doanh không tách rời hoạt động cạnh tranh gay gắt.
1.1.5 Quản lý và sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
Với xu hướng phát triển không ngừng để có thể hội nhập với nền
kinh tế thế giới, các doanh nghiệp luôn tìm mọi nguồn vốn đáp ứng nhu cầu
phát triển và cạnh tranh cho mình. Việc tìm nguồn vốn luôn gắn với chi phí
vốn và cơ cấu vốn. Sau việc huy động vốn từ các nguồn cũng là vấn đề sử
dụng vốn, bảo toàn và phát triển vốn một cách hợp lý trong doanh nghiệp.
1.1.5.1 Bảo toàn và phát triển vốn trong doanh nghiệp.
Nội dung của bảo toàn và phát triển vốn được nêu trong chỉ thị số
138-CT của Hội đồng bộ trưởng và được giải thích trong thông tư số 31-
TC/TN của Bộ tài chính như sau: Bảo toàn và phát triển vốn ở các đơn vị
kinh tế được thực hiện trong quá trình sử dụng vốn vào mục đích sản xuất
kinh doanh, đảm bảo cho các loại tài sản không bị hư hỏng trước thời hạn,
không bị mất mát hoặc ăn chia vào vốn, không được tạo ra lãi giả để làm
giảm vốn, kể cả vốn cố định và vốn lưu động. Đồng thời, người sử dụng
vốn phải thường xuyên duy trì được giá trị đồng vốn của mình thể hiện
bằng năng lực sản xuất của tài sản cố định, khả năng mua sắm vật tư cho
khâu dự trữ và tài sản lưu động định mức nói chung, duy trì khả năng thanh
toán của doanh nghiệp. Do đó trong điều kiện có trượt giá tăng lên thì số
14
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét