Tình hình và nhiệm vụ mới của Đảng
Ngày 25/5/2003. Cập nhật lúc 17
h
16'
I- Phát triển và củng cố đảng
A- Tình hình phát triển và củng cố Đảng
Từ ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ đến nay, Đảng đã phát triển vượt bực so với thời kỳ sau khởi
nghĩa. Nhiều địa phương, nhất là ở Bắc Bộ và Trung Bộ, đã nỗ lực thi đua xây dựng Đảng, đẩy mạnh đà
phát triển của Đảng, làm cho Đảng dần dần bắt rễ sâu vào quảng đại quần chúng nhân dân. Đảng đã tiếp
đón vào hàng ngũ những phần tử ưu tú nhất của quốc gia, từ những công nhân trong vùng tự do và bị
chiếm đóng, những trung, bần nông ở các miền thôn quê, cho đến những thanh niên anh dũng trong bộ
đội, những nhà trí thức tài giỏi trong nước và cả những bậc tu hành, ngày nay, toàn thể Đảng bộ đã có tới
11 vạn đảng viên.
Tính trung bình trong toàn cõi Đông Dương cứ 240 dân thì có 1 đảng viên, và một đảng viên phải lãnh đạo
40 quần chúng cứu quốc nếu ta so với hơn triệu rưởi hội viên Việt minh toàn quốc và 25 triệu dân Đông
Dương.
Điểm qua tình hình hiện tại, chúng ta thấy Đảng ta đang trưởng thành và xứng đáng là một đảng tiền
phong trong cuộc giải phóng dân tộc. Nhưng trước đà phát triển này, Đảng không tránh được những
khuyết điểm do hoàn cảnh đặc biệt về địa dư, giao thông liên lạc khó khǎn, trình độ chênh lệch giữa các
dân tộc và các địa phương trong nước.
1. Sự phát triển không đều của Đảng
Số lượng đảng viên của các xứ và riêng từng địa phương rất chênh lệch, Bắc Bộ, nói chung là nơi cơ sở
đảng mạnh nhất : Tính trung bình, cứ 130 người dân thì có 1 đồng chí và mỗi đồng chí phải lãnh đạo 25
quần chúng cứu quốc. Nhiều tỉnh đã có 3,4 nghìn đảng viên và có những tỉnh số lượng đã lên tới hơn 6
nghìn như ở Hải Dương và Thái Bình.
Trong khi ở Bắc Bộ đang có phong trào thi đua sôi nổi phát triển Đảng, thi đua đặt kế hoạch chương trình
xây dựng Đảng, thì ở Nam Bộ, Lào, Miên cơ sở đảng vẫn còn nằm trong tình trạng hẹp hòi yếu ớt: cơ sở
đảng ở Lào, Miên gần như chưa có gì trong khi phong trào giải phóng Lào, Miên đang lên cao.
ở Nam Bộ, còn giữ quan niệm tổ chức hẹp hòi của thời kỳ bí mật nên không mở rộng tổ chức đảng để thu
hút những phần tử đã biểu lộ hy sinh, hǎng hái trong cuộc kháng chiến. Số lượng hội viên Việt minh toàn
xứ có đến hơn 1 triệu rưởi, mà số đảng viên chỉ có 10.000. Tính trung bình một đồng chí Nam Bộ phải lãnh
đạo 150 quần chúng cứu quốc và cứ 600 dân chúng bên ngoài thì có một đồng chí. Nếu xét từng tỉnh một,
chúng ta lại càng thấy rõ sự phát triển hẹp hòi của Nam Bộ, ở các tỉnh dân cư đông đúc và tập trung công
nhân nhất, số đồng chí cũng không tới một nghìn.
ở Trung Bộ, Đảng chỉ phát triển mạnh ở miền Bắc, còn miền Quảng Bình, Thừa Thiên và nam Trung Bộ thì
phát triển chậm (một phần vì dân chúng ít) và có nhiều tỉnh miền Nam, qua một thời gian phát triển bừa
bãi, các đồng chí đã chủ trương hãm đà phát triển, giáo dục huấn luyện đảng viên, củng cố đã rồi mới phát
triển sau. Vì vậy trong toàn khu số đồng chí dự bị bằng 1/3 tổng số.
Trái với miền Nam, ở Bắc Bộ một số địa phương còn mắc phải bệnh phát triển bừa bãi, nên hàng ngũ
đảng ở những nơi này lỏng lẻo, chi bộ hết sức non kém, có nhiều đồng chí kém tinh thần, kém ý thức, vào
Đảng mà chưa biết Đảng là gì, thậm chí có đồng chí coi Đảng như một hội hiếu hỉ, xin ra Đảng, cho con
vào thay, tình trạng này xảy ra ở các tỉnh Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Yên (Khu 10).
ở Phú Thọ, số đồng chí dự bị gần gấp ba số đồng chí chính thức hồi đầu nǎm (đây là hiện tượng trái lại
với nhiều tỉnh miền Nam Trung Bộ). ở hai huyện Hạ Hoà và Thanh Ba, vì cán bộ chủ trương sai, ra chỉ thị
định mức phát triển quá đáng nên cấp dưới thi hành máy móc (định hạn tổ chức cho được gấp ba gấp bốn
số đồng chí cũ sau ba tháng). Vì vậy ở một vài chi bộ số đồng chí dự bị gấp 10 số chính thức. Việc phát
triển quá bừa bãi này đã trở thành một cuộc mở rộng cửa Đảng để kết nạp các tầng lớp, đến nỗi có những
phần tử lưu manh và mật thám cũ của Pháp chui vào tổ chức. Vấn đề củng cố Đảng ở những nơi này thật
là cấp bách.
2. Cơ sở đảng chưa thực đi sâu vào quảng đại quần chúng nhân dân
Xét riêng ở miền Bắc, nhiều nơi chi bộ đã phát triển tiến tới liên xã và các thôn đã có tiểu tổ. Đầu nǎm
1947, toàn Xứ mới có 803 chi bộ, cuối tháng 4-1948 đã có 3.538 chi bộ. Có những chi bộ liên xã bao gồm
200 đồng chí. ở những nơi này có cơ sở đảng đã nắm chắc quần chúng. Nhưng xét chung trong toàn quốc
số lớn các liên xã vẫn chưa có chi bộ (nhất là ở Nam Bộ). Liên khu 1 còn gần một nửa tổng số liên xã
chưa có chi bộ. Phần đông chi bộ lại chưa có chi uỷ và không quán xuyến được mọi mặt công tác (Liên
khu 3 là nơi Đảng phát triển mạnh nhất cũng còn hơn 51% tổng số chi bộ chưa có chi uỷ).
Nói về cơ sở đảng trong bộ đội, thì Nam Bộ và Miên, Lào là những nơi Đảng phát triển kém nhất. Từ Khu 4
trở ra Bắc hầu hết các đại đội đã có chi bộ. ở Lào, Miên, bộ đội gần như chưa có cơ sở đảng. ở các khu
Nam Bộ, theo các con số đầu nǎm 1948, cơ sở đảng cũng rất yếu. Nói chung trong toàn quốc thì chi bộ
chưa phát triển ra khắp các đại đội; đa số trung đội chưa có tiểu tổ, nhiều nơi chú ý phát triển trong hàng
ngũ cán bộ nhiều hơn là đội viên.
Trong các xí nghiệp, cơ sở đảng vẫn còn yếu ớt ở miền Bắc và hẹp hòi ở miền Nam. ở Bắc Bộ, miền mỏ
Quảng Yên, Hòn Gai Pháp chiếm đóng, có đến hàng vạn công nhân (quá nửa tổng số công nhân toàn Liên
khu 1) mà cơ sở đảng thì còn non nớt. ở Nam Bộ công đoàn phát triển đến số bảy vạn đoàn viên mà cơ
sở đảng thì còn yếu. Riêng vùng Sài Gòn - Chợ Lớn có đến 15.000 đoàn viên công đoàn mà số đồng chí
công nhân có trong tổ chức đảng chỉ chiếm phần nhỏ. Ngoài ra các chi bộ ở trong các binh công xưởng
của Chính phủ vẫn chưa phát triển mạnh, chi bộ vẫn chưa sâu rộng trong các đồn điền, các trại ấp di cư
có nhiều công nhân. Tóm lại, cơ sở đảng chưa thu hút được đa số công nhân các xí nghiệp vùng tự do và
chưa phát triển trong các xí nghiệp vùng địch chiếm đóng.
Trong các ngành chuyên môn: Đảng chỉ gây được cơ sở đảng trong các ngành bình dân học vụ, thông tin
tuyên truyền, công an, còn các ngành khác thì tới nay Đảng vẫn chưa có cơ sở, hay còn kém, nên sự lãnh
đạo rất là lỏng lẻo, nhất là các ngành tư pháp, giáo dục, công chính, kinh tế, và các ngành quân y, quân
nhu trong bộ đội. Tình trạng trên đây, phần lớn cũng vì Đảng không đưa cán bộ vào các cơ quan chính
quyền trên để giúp công tác chuyên môn cho Đảng, đồng thời làm công tác chuyên môn cho chính quyền.
Sự liên lạc giữa các đảng đoàn và các cấp chưa thực hiện theo đúng nghị quyết Hội nghị cán bộ lần thứ IV
cũng làm trở ngại cho việc phát triển Đảng trong các ngành chuyên môn.
Xét từng địa phương một, chúng ta thấy Đảng chưa phát triển mạnh mẽ ở các vùng dân tộc miền núi, các
miền biên giới, và cơ sở đảng chưa vững hoặc chưa có trong các vùng công giáo Bắc Bộ, Trung Bộ và các
vùng Cao đài, Dân xã, ở các tỉnh Tây Ninh, Châu Đốc, Long Xuyên, Nam Bộ.
Riêng Trung Bộ vẫn chưa gây được cơ sở vững trong đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng Tây Nguyên và
vùng biên giới Lào phía bắc. ở Việt Bắc, dân tộc miền núi chiếm quá nửa dân số mà cơ sở đảng còn kém.
Các đảng bộ địa phương chưa gây được cơ sở đảng trong các dân tộc Mán, Nùng, Mèo, chỉ thiên về việc
phát triển đảng trong đồng bào Thổ, việc phát triển không đi đôi với giáo dục, huấn luyện, nên ý thức đảng
của đồng chí miền núi hết sức kém cỏi, nhiều đồng chí trình độ chỉ bằng quần chúng cứu quốc miền xuôi.
Việc gây cơ sở trong miền đồng bào công giáo rất khó khǎn. Phần lớn vì chúng ta thiếu cán bộ có nǎng
lực hoạt động công giáo và các đồng chí thường hay rụt rè trong khi tuyên truyền đồng bào công giáo tốt.
Về thành phần xã hội trong Đảng, chúng ta thấy hơn 70% đảng viên thuộc về trung, bần nông (không biết
rõ tỷ số đảng viên bần nông vì các địa phương không báo cáo riêng), thành phần công nhân không được
10%, thành phần các giới khác gấp hai thành phần công nhân. Đấy là tình trạng dĩ nhiên của một đảng ở
một xứ nông nghiệp, nhưng Đảng ta cũng cần phải chú trọng phát triển trong các xí nghiệp, nhất là ở Nam
Bộ. Đồng thời, phải chú trọng phát triển trong giới bần, cố nông.
Riêng về thành phần nam nữ, thì số đồng chí phụ nữ rất ít. Tính về số lượng trong toàn Đảng thì số đồng
chí phụ nữ không được 8%. Riêng Khu 3 có 2 triệu quần chúng phụ nữ, mà chỉ có 2.400 đồng chí, nghĩa là
830 phụ nữ mới có một đồng chí.
Kiểm điểm tình hình trên đây, ta thấy cơ sở đảng vẫn chưa thực đi sâu vào đông đảo quần chúng nhân
dân nhất là trong các giới công nhân, bần, cố nông và phụ nữ. Đảng bộ miền Nam phải cố gắng nhiều hơn
nữa để kịp với sự phát triển ở miền Bắc.
3. Cơ sở đảng trong các vùng bị chiếm đóng có nhiều triển vọng.
Nói chung, nhiều đảng bộ địa phương trong vùng địch kiểm soát và chiếm đóng đã gây được những thành
tích khả quan, mặc dầu gặp nhiều trở lực nặng nề, nhất là sự khủng bố vô cùng dã man của giặc. Nhiều
đồng chí đã quyết tâm theo dân chúng hồi cư về các vùng địch, gây lại cơ sở quần chúng và đảng. ở Bắc
Bộ, Liên khu 3 đã gây lại được cơ sở mỗi ngày một mạnh mẽ ở nhiều tỉnh địch chiếm đóng. ở Liên khu 1
mức phát triển đảng trong vùng Quảng Yên, Hải Ninh, Bắc Ninh đã theo một tốc độ khả quan, Đảng bộ
Quảng Yên gây lại được cơ sở ở hầu hết các địa phương trong hoàn cảnh vô cùng khó khǎn, Nam phần
Bắc Ninh gây lại được cơ sở đảng và quần chúng sau ba tháng bị địch càn quét dữ dội và đến nay tốc độ
phát triển đã ngang với vùng tự do. Đảng bộ Hải Ninh không những phục hồi được cơ sở ở Đình Lập 10
tháng sau khi thị trấn này rơi vào tay quân địch, lại còn gây được cơ sở ở Móng Cái, Hải Ninh, những miền
mà cơ sở đảng hoàn toàn không có trước ngày kháng chiến. Hai tỉnh Bắc Ninh và Hải Ninh đã được hội
nghị toàn liên khu tặng hai giải thưởng "danh dự" và "cố gắng". ở Sơn La, Khu 10 cũng không kém, hoàn
cảnh rất khó khǎn mà các đồng chí đã gây được những thành tích khả quan. Miền Nam Trung Bộ các tỉnh
bị chiếm, cơ sở đảng cũng có nhiều triển vọng phát triển. Thật là một tiến bộ đem lại bằng máu và lòng hy
sinh chiến đấu của các chiến sĩ trong vùng địch kiểm soát. Đây chúng ta chỉ kể những thành tích đặc biệt
vẻ vang của một vài địa phương. Chắc còn nhiều cơ sở đảng nữa trong vùng địch kiểm soát ở các tỉnh
Khu 4 và ở miền Nam đã lượm được những thành tích vẻ vang trong việc xây dựng đảng ngay sát nách
quân địch, nhưng vì hoàn cảnh giao thông liên lạc khó khǎn, thiếu báo cáo về Trung ương nên không kể ra
đây được.
Tuy vậy nhìn chung trong toàn quốc, còn một số khá nhiều địa phương bị chiếm đóng chưa có cơ sở đảng,
hoặc cơ sở chưa vững vàng. Gây cho được cơ sở đảng ở những nơi này, đẩy mạnh công tác phát triển
đảng ở những nơi đã có cơ sở rồi là nhiệm vụ khẩn yếu của chúng ta lúc này, để triệt để thực hiện khẩu
hiệu "Biến hậu phương địch thành hậu phương ta".
4. Công tác củng cố đảng chưa theo kịp đà phát triển, nhất là ở miền Bắc Đông Dương
1- Tình hình huấn luyện học tập
Phong trào huấn luyện, học tập sôi nổi ở Bắc Bộ và Trung Bộ. Các cấp bộ đã chú trọng huấn luyện đồng
chí mới và Chi uỷ. Nhiều tỉnh Bắc Bộ đã mở được rất nhiều lớp. Liên khu 3 và Liên khu 1 có những tỉnh
như Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Bắc Ninh, Bắc Giang, mở được nhiều lớp huấn luyện nhất, nên
công tác huấn luyện gần đuổi kịp mức phát triển. Ngành huấn luyện ở Liên khu 1 đã được Hội nghị toàn
Liên khu khen thưởng. Trong 5 tháng đầu 1948, toàn Liên khu 3 đã mở được:
- 674 lớp cho 19.653 đồng chí mới
- 105 lớp cho 2.785 chi uỷ viên
- 32 lớp cho 1.067 huyện uỷ viên.
Liên khu 1 trong một nǎm nay đã mở được 666 lớp cho 13.606 học viên. Trung Bộ đã chú trọng đến việc
huấn luyện chi bộ theo một chương trình thống nhất và thiết thực. Tuy vậy, nói chung toàn quốc các lớp
huấn luyện vẫn chưa đủ để theo kịp mức phát triển mạnh mẽ của Đảng. Vì vậy cho nên ở những miền
phát triển bừa bãi nhiều đồng chí, chi bộ, trình độ hết sức kém cỏi, mà chưa được huấn luyện, nhất là ở
các tỉnh Khu 10 và các tỉnh dân tộc thiểu số Khu 1. Nguyên nhân chính vì thiếu huấn luyện viên chuyên
môn, thiếu chương trình huấn luyện thống nhất và thích hợp với trình độ từng địa phương, từng cấp một.
Về phương diện vǎn hoá, trình độ các đồng chí nhất là ở chi bộ còn kém cỏi quá, có nơi có đồng chí chưa
biết đọc biết viết, tình trạng này có ảnh hưởng lớn đến sự tiến bộ về công tác và lý luận của các đồng chí.
ở miền Bắc, chúng ta đã chú ý, nhưng chưa đặt kế hoạch triệt để giải quyết vấn đề này. Đặc biệt ở Nam
Trung Bộ các đồng chí đã có sáng kiến mở những trường trung học bình dân, thời hạn hai nǎm và các lớp
tỉnh, phủ, huyện, xã cho các cán bộ và các đồng chí kém vǎn hoá. Trong nǎm nay, trường trung học bình
dân Nam Trung Bộ có hơn 300 học viên, sự học tập rất sôi nổi và có thể trong hai nǎm, học viên bắt đầu từ
chỗ trình độ vǎn hoá tiểu học sẽ tiến kịp và qua bậc thành chung. Các đồng chí miền Nam đã giải quyết kịp
thời vấn đề dốt nát về vǎn hoá của cán bộ và sẽ có triển vọng đạt được nhiều kết quả hơn nữa. Việc nâng
cao đảng tính của đảng viên cũng đã được các cấp bộ chú trọng như việc huấn luyện chính trị, vǎn hoá.
Vấn đề phê bình được thi hành khắp các cấp bộ, khắp các nơi đã mở những cuộc kiểm thảo thư Hồ Chủ
tịch. Riêng miền Nam Trung Bộ đã có những tổ nghiên cứu chỉnh phong, sự tu dưỡng, các đảng viên đã
đạt được nhiều kiết quả. Xét về toàn bộ thì vấn đề giáo dục đảng viên được khắp các cấp bộ chú trọng thi
hành, nhưng vẫn còn mắc khuyết điểm chính: chưa theo kịp mức phát triển, chưa có chương trình thống
nhất và thích hợp cho từng địa phương, từng cấp bộ, vấn đề học tập vǎn hoá vẫn chưa có phương pháp
thực hiện cho có hiệu quả ở khắp các nơi trừ Nam Trung Bộ.
2- Đề cao kỷ luật của Đảng
Đi đôi với việc giáo dục, việc thi hành kỷ luật đã được dần dần chấn chỉnh đúng nguyên tắc ở nhiều nơi
Bắc Bộ. nhiều phần tử xấu xa do tổ chức bừa bãi của địa phương đã thanh trừ, và một số ít phần tử hủ
hoá, phản bội, đã đuổi ra khỏi Đảng (Quảng Nam, Hải Ninh, Hồng Quảng, Hưng Yên, Hà Đông, v.v.). Tổng
số các khu Bắc Bộ trong một nǎm nay đã thi hành đến 1.000 án đối với các đồng chí phạm kỷ luật. Nhờ có
sự đề cao kỷ luật mà hàng ngũ đảng đã thống nhất và chặt chẽ hơn trước, nhưng còn nhiều nơi vì phát
triển bừa bãi quá nên việc thanh trừ những người kém cỏi quá ra khỏi Đảng vẫn chưa thực hiện được.
3- Việc đào tạo chi bộ tự động công tác
Theo báo cáo của Liên khu 3 đã có 464 chi bộ tự động (27%) trong số 1.780 chi bộ toàn Liên khu. Việc xây
dựng chi bộ tự động ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã tiến hành rất sôi nổi và được coi là phương pháp chính
để củng cố cơ sở của Đảng. Hiện nay các cấp bộ đảng xúc tiến việc bỏ chế độ phụ trách. Các huyện uỷ đã
giao cho chi bộ tự động quyền tổ chức đồng chí mới rồi báo cáo sau. Chi bộ tự động lãnh đạo được mọi
mặt công tác trong xã, biết đặt kế hoạch thi hành nghị quyết cấp trên sát với hoàn cảnh địa phương, tự
động ứng phó được với tình thế khó khǎn. Một số chi bộ đã có những đồng chí đủ nǎng lực phụ trách
tuyên huấn, dân vận, kinh tế tài chính, giao thông và vǎn phòng của chi bộ. Có những chi uỷ ở Liên khu 3
(Hưng Yên) có trình độ của huyện uỷ viên thời kỳ cuối nǎm 1947. Khu 4 cũng có nhiều chi bộ tự động công
tác và nhiều chi bộ kiểu mẫu, nhưng vì chưa có báo cáo nên chưa biết được con số rõ rệt.
Tuy vậy, nếu nhìn chung về toàn bộ số chi bộ có nǎng lực tự động còn rất ít và đa số lại ở những vùng
địch kiểm soát. Còn ở hậu phương nhất là trong vùng dân tộc thiểu số thì số lớn chi bộ liên xã, chi bộ cơ
quan, chi bộ đại đội còn kém cỏi, chưa tự động công tác được.
ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ vẫn chưa tập trung công tác vào việc xây dựng chi bộ và đào tạo chi bộ tự
động như miền Bắc. Vì vậy, việc dìu dắt huấn luyện cho các chi bộ phải được thi hành triệt để ở khắp mọi
nơi thì các chi bộ mới đủ sức tự động lãnh đạo phong trào ở các địa phương.
B- Nhiệm vụ phát triển và củng cố Đảng
Trên đây chúng ta đã vạch những ưu điểm và khuyết điểm chính về tình hình phát triển Đảng. Nói chung
nhờ ở sự cố gắng, tận tuỵ của các cấp bộ, Đảng ta đã lượm được những thành tích khả quan, nhưng
trong khi thực hiện chương trình, kế hoạch phát triển và củng cố vẫn còn mắc nhiều khuyết điểm: phát
triển không đều trong toàn quốc, công tác củng cố không theo kịp phát triển ở Bắc Bộ. Do đó mấy nhiệm
vụ chính của chúng ta lúc này phải là:
1. Phát triển Đảng ở miền Nam phải đi kịp với miền Bắc. Gây cho được cơ sở trong dân chúng Miên - Lào.
Bỏ quan niệm hẹp hòi, sai lầm trong việc kết nạp đảng viên quá khắt khe ở Nam Bộ, bỏ chủ trương củng
cố đã rồi mới phát triển ở Nam Trung Bộ. Phải đặt một chương trình thi đua xây dựng Đảng dựa theo chỉ
thị của Trung ương. Nhưng chú ý tránh phát triển bừa bãi như một vài nơi ở Bắc Bộ và đề phòng bọn phản
động chui vào hàng ngũ Đảng.
Kết nạp đảng viên theo điều kiện ở miền Bắc: tán thành chủ nghĩa; hǎng hái làm việc và có tư cách đúng
đắn.
Các Ban cán sự Lào, Miên phải mạnh dạn nhằm những phần tử hǎng hái chiến đấu trong hàng ngũ Việt
kiều cứu quốc, tổ chức họ vào Đảng, phải tìm tòi thu hút những phần tử hǎng hái trong hai dân tộc Miên,
Lào (điều kiện vào Đảng của họ có thể dễ dàng hơn), và đào tạo họ thành những cán bộ cốt cán cho công
tác vận động Lào, Miên. Gây cho được cơ sở đảng trong dân chúng Miên, Lào. Phải chú trọng nhất các
đoàn thể cấp tiến, các phần tử thanh niên trí thức và bộ đội Lào độc lập.
Hướng phát triển Đảng. Việc phát triển Đảng ở Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ thực hiện cho được Nghị quyết Hội
nghị cán bộ lần thứ IV tháng 5-1948.
ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ hướng phát triển phải nhằm mấy đích sau đây:
1- Phát triển Đảng tới các liên xã và các đại đội Vệ quốc đoàn.
2- Các thành phố lớn
3- Các xí nghiệp, các đồn điền cao su
4- Các đường giao thông quan trọng.
2. Gây cho được cơ sở sâu rộng trong khắp các vùng địch kiểm soát và chiếm đóng để thực hiện khẩu
hiệu biến hậu phương địch thành hậu phương ta.
Miền Bắc: Phải phát triển và tǎng cường tổ chức đảng ở những nơi có cơ sở rồi và phải gây cho được cơ
sở đảng ở những tỉnh biên giới địch chiếm đóng, để phát động mạnh phong trào du kích và phá hoại kinh
tế địch mạnh mẽ hơn nữa.
Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ:theo báo cáo đầu nǎm 1948 thì số lớn các đô thị địch chiếm đóng ở Nam
Trung Bộ (trừ Quảng Nam, Đà Nẵng) và các tỉnh thành Nam Bộ, nhất là Sài Gòn, Chợ Lớn, Thủ Dầu Một,
Gia Định, Cần Thơ, v.v. cơ sở đảng còn non kém, hẹp hòi. ở những nơi này phải tích cực ném cán bộ có
nǎng lực vào gây dựng cho được cơ sở mạnh mẽ hơn để tiến tới, kịp với miền Bắc.
Việc phát triển Đảng trong vùng địch kiểm soát phải thận trọng đề phòng gian tế chui vào phá tổ chức. Tổ
chức phải bí mật đơn giản.
3. Củng cố phải đi đôi với phát triển nhất là ở miền Bắc
Nói chung việc củng cố Đảng, nhất là ở miền Bắc chưa theo kịp sự phát triển, số đồng chí dự bị còn nhiều
hơn số đồng chí chính thức hàng bảy, tám ngàn. Đảng viên càng ngày càng đông mà đa số trình độ chính
trị, vǎn hoá rất kém. Vì vậy, nhiều chi bộ không đủ sức lãnh đạo công tác trong các xã, trong các xí nghiệp
và trong các đơn vị bộ đội. Mấy nhiệm vụ cần thiết hiện thời của các cấp bộ là:
1- Giáo dục đảng viên:
a) Về chính trị: ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ tiếp tục công tác huấn luyện chính trị theo kế hoạch chương
trình đã vạch ra trong nghị quyết Hội nghị tuyên huấn toàn quốc 2-1948. Để theo kịp với mức phát triển,
chú trọng thực hiện cho được "kết nạp đồng chí nào trong ba tháng phải huấn luyện ngay đồng chí ấy theo
chương trình sơ cấp".
ở Nam Bộ phải thực hành đúng theo nghị quyết Hội nghị tuyên huấn toàn quốc. Chú trọng đặc biệt mở
nhiều lớp huấn luyện chính trị hơn nữa cho các cấp, mở những lớp ngắn hạn cho các đồng chí mới và chi
uỷ. Ban tuyên huấn Trung ương chú trọng gửi tài liệu cho các nơi kể trên.
b) Về vǎn hoá: Trung ương và các liên khu uỷ xúc tiến mở những trường dạy vǎn hoá dài hạn cho các
đồng chí và cán bộ theo kinh nghiệm của trường trung học bình dân, các lớp tỉnh, phủ, huyện, xã đã có ở
miền Nam Trung Bộ.
Chú ý: Việc giáo dục chính trị và vǎn hoá cho các đồng chí phải đi đôi với việc tích cực bài trừ những tư
tưởng hành động sai lầm của các đảng viên để nâng cao đảng tính của các đồng chí.
2- Thanh trừ những đảng viên không xứng đáng
Đặt kế hoạch thanh trừ ở những nơi phát triển bừa bãi quá để loại ra khỏi Đảng những phần tử cơ hội vào
Đảng vì a dua, vì cảm tình gia đình, v.v Đối với những đồng chí kém cỏi quá sau một thời gian rèn luyện
mà không tiến bộ được cũng loại ra khỏi Đảng.
Phải đề cao kỷ luật, cương quyết đuổi ra khỏi Đảng những phần tử mất tinh thần, vô kỷ luật, hủ hoá.
Nhưng không coi việc thanh trừ là một phương pháp chính để củng cố Đảng. Đi đôi với việc đề cao kỷ luật,
phải tǎng gia công tác kiểm tra hàng ngũ để phòng gian, nhất là trong các bàn giấy kháng chiến hành chính
và quân đội.
Trong việc kết nạp những trí thức tư sản, nhất là những người thuộc đảng phái khác, phải hết sức thận
trọng đề phòng những phần tử cơ hội chủ nghĩa, những phần tử đầu óc còn nhiễm đầy tư tưởng quốc gia
chui vào hàng ngũ Đảng.
4. Tất cả mọi công tác củng cố Đảng đều phải nhằm mục đích xây dựng chi bộ
Việc đào tạo chi bộ tự động ở Bắc Bộ, và Bắc Trung Bộ tiếp tục thực hiện kế hoạch đã vạch tại Hội nghị
cán bộ lần thứ IV.
ở Nam Trung Bộ và nhất là ở Nam Bộ, phải đổi lối làm việc, phải chuyển hướng công tác củng cố vào việc
xây dựng chi bộ, đào tạo chi bộ tự động công tác theo nền nếp đang thực hành ở miền Bắc.
II- vấn đề tổ chức trong đảng
A- Tình hình tổ chức trong Đảng hiện nay
Việc thống nhất tổ chức trong phạm vi toàn Đảng từ trước đến giờ vẫn chưa lúc nào thực hiện được hoàn
toàn, vì giao thông liên lạc khó khǎn, cán bộ thiếu, tình hình chính trị quân sự mỗi nơi một khác, mỗi lúc
một khác. Sau khi khởi nghĩa và nhất là từ toàn quốc kháng chiến đến giờ, tuy hệ thống tổ chức đã châm
chước điều lệ, quy định ra những hình thức tổ chức mới cho thích hợp, nhưng giữa Bắc, Nam, Trung sự tổ
chức cũng vẫn còn khác nhau.
1. Về hệ thống tổ chức, trước đây toàn quốc chia ra làm nǎm xứ đảng bộ, từ ngày toàn quốc kháng chiến
có chỉ thị lập ra các khu đảng bộ, rồi gần đây, tháng 1-1948 lại lập ra các liên khu đảng bộ. Nhưng từ Thừa
Thiên, Quảng Bình trở ra Bắc thì thực hiện được việc tổ chức khu và liên khu. Từ Quảng Nam, Quảng
Ngãi trở vào Nam vẫn chưa dứt khoát, ba khu thuộc Nam Trung Bộ: 5, 6, 15 chưa gọi là liên khu đảng bộ
mà để các khu nhỏ về quân sự và lập ra một ban chỉ đạo chung là uỷ ban chỉ đạo miền Nam Trung Bộ. ở
Nam Bộ vẫn giữ hình thức Xứ đảng bộ, ở Lào, Miên vì cơ sở đảng còn kém và từ trước đến giờ mới chỉ có
một ban Cán sự phụ trách chứ chưa có điều kiện là một xứ đảng bộ.
Việc đặt ra các phân cục Trung ương chỉ có hình thức hơn là thực tế, gọi là Trung ương phân cục, nhưng
chỉ có một đồng chí đại diện Trung ương chịu trách nhiệm.
2. Tổ chức đảng trong quân đội, Trung ương chủ trương lập ra các ban chấp uỷ trong bộ đội, có một hệ
thống từ trên xuống dưới. Sau một thời gian làm việc, mặc dầu có một hệ thống chấp uỷ dọc, Trung ương
Quân uỷ vẫn chỉ huy không thấu suốt được, trong khi đó, các cấp uỷ đảng ít chú ý đến bộ phận đảng trong
bộ đội, các đồng chí trong quân đội, đôi nơi có tư tưởng biệt phái, không mật thiết liên lạc và chịu sự chỉ
đạo của cấp uỷ đảng tương đương, làm cho công việc cả về chính quyền lẫn đoàn thể bị chậm trễ.
Về nguyên tắc, Đảng là một tổ chức chỉ có một hệ thống duy nhất không thể có một hệ thống thứ hai.
3. Trong điều lệ Đảng có quy định việc tổ chức ra các khu đặc biệt và các chi bộ đặc biệt, nhưng từ ngày
khởi nghĩa đến giờ, Trung ương chưa quy định việc tổ chức các khu và các chi bộ đặc biệt (có một dạo
nhận nhầm những chi bộ cơ quan là đặc biệt) và lại bỏ khu đặc biệt Hòn Gai.
Từ ngày toàn quốc kháng chiến đến giờ, địa vị quan trọng đặc biệt của Hòn Gai, Hà Nội, Sài Gòn, Chợ
Lớn, càng thấy rõ ràng về kinh tế, chính trị và quân sự, việc lập ra các khu vực đặc biệt để Trung ương
trực tiếp phụ trách là rất cần thiết.
4. Trước đây, khi chưa giành được chính quyền, các cấp uỷ đảng lập ra các Ban Công vận, Nông vận, Phụ
vận để giúp việc. Sau khởi nghĩa, lại chủ trương lập ra Ban Dân vận các cấp. Tuy nhiệm vụ, quyền hạn đã
quy định dứt khoát, nhưng các ban này chưa biết phân biệt nhiệm vụ mình với các đảng đoàn trong các tổ
chức quần chúng.
Cũng vì thiếu cán bộ mà phải lập ra Ban dân vận và các ban khác cùng một lúc, các cấp uỷ thi hành chiếu
lệ nên kết quả thực tế về công tác của Ban dân vận các cấp chưa đạt được mấy, nhất là các Ban dân vận
tỉnh chưa biết làm gì.
5. Tổ chức bên trong của Đảng, từ trước tới nay cứ phải chạy theo tình thế, mà tình thế biến chuyển rất
nhanh. Để phụ trách các công việc tổ chức về mọi mặt, Trung ương và các cấp lập ra Ban tổ chức, nhưng
từ trên xuống dưới, phần nhiều chỉ làm được ít nhiều công việc thuộc về nội bộ của Đảng. Các Ban tổ
chức và các cấp uỷ cũng ít biết đến công việc nội bộ của đảng. Các Ban tổ chức và các cấp uỷ cũng ít biết
đến công việc chung của mọi mặt, phần nhiều làm đâu biết đấy. Trên đây là mấy vấn đề thuộc tổ chức bên
trong của Đảng, ta thấy rõ ràng còn có nhiều điểm cần phải chấn chỉnh để cho công việc chỉ đạo được
nhanh chóng.
B- Chấn chỉnh tổ chức của Đảng
Việc thống nhất hệ thống và hình thức tổ chức làm cho Đảng được thống nhất về hành động, tư tưởng.
Tình trạng tổ chức của Đảng ta hiện giờ cần có sự chấn chỉnh như sau:
1. Lập các Khu đảng bộ, Xứ đảng bộ
Từ Thừa Thiên, Quảng Bình, Quảng Trị trở ra Bắc, thì giữ hình thức liên khu, ba khu Nam Trung Bộ 5, 6,
15 thống nhất thành một liên khu cũng như một liên khu Bắc Bộ (Ban Chấp uỷ miền Nam của ba khu này
đổi thành liên khu uỷ) còn Nam Bộ vì hoàn cảnh đặc biệt, sự liên lạc giữa các tỉnh với toàn xứ có thể thực
hiện được, vì thế cứ dùng hình thức xứ đảng bộ như cũ. Xứ Đảng bộ Nam Bộ to hơn một Khu đảng bộ
Bắc bộ, ở Nam Bộ có thể lập ra các liên tỉnh, tuỳ theo tình thế. ở Lào và Miên phải đi đến lập ra các ban
Xứ uỷ, nhưng trong khi cơ sở còn kém, cán bộ thiếu thì lập ra một ban Cán sự cho mỗi xứ. Đứng về
nguyên tắc, các khu đảng bộ, xứ đảng bộ và các ban cán sự Lào, Miên, Xiêm đều trực tiếp do Ban
Thường vụ Trung ương phụ trách, nhưng vì giao thông, liên lạc khó khǎn, Trung ương uỷ nhiệm một đồng
chí Trung ương phụ trách Nam Bộ và Ban Cán sự Trung ương ở ngoài cũng do một đồng chí Trung ương
nữa phụ trách chỉ huy ba ban: Đặc uỷ Xiêm, hai Ban Cán sự Lào, Miên và công việc bên ngoài. Phân cục
Trung ương sẽ bỏ đi. Để cho giữa các khu có sự giúp đỡ lẫn nhau và trao đổi kinh nghiệm, các khu tiếp
giáp với nhau cần có sự liên lạc để giúp đỡ hoặc hợp tác trong khi cần thiết.
2. Lập chế độ uỷ viên chính trị
Muốn cho tổ chức đảng trong quân đội được mật thiết với các cấp bộ đảng, bỏ hệ thống tổ chức chấp uỷ
thứ hai bên cạnh hệ thống đảng, tổ chức đảng trong quân đội sẽ quy định như sau: (cǎn cứ vào đề nghị
của hội nghị cán bộ Đảng trong quân đội).
Bỏ hệ thống chấp uỷ hiện giờ, từ Trung ương quân uỷ cho đến Trung đoàn uỷ, thay bằng chế độ uỷ viên.
Đại diện Trung ương phụ trách việc Đảng và quân sự trong quân đội toàn quốc là một uỷ viên Trung ương,
gọi là uỷ viên chính trị Trung ương. Trong một Liên quân khu có một uỷ viên gọi là uỷ viên chính trị liên
khu, do Trung ương chỉ định
ở mỗi trung đoàn có một uỷ viên chính trị trung đoàn, cũng do Trung ương chỉ định. Uỷ viên chính trị liên
khu và uỷ viên chính trị trung đoàn được tham gia liên khu uỷ và Tỉnh uỷ. ở tiểu đoàn không có uỷ viên
chính trị, mà do bí thư liên chi chịu trách nhiệm (từng tiểu đoàn lập ra một liên chi bộ, gồm có các chi bộ
trong một tiểu đoàn). Những đơn vị lưu động, khi đến nơi nào phải liên lạc với nơi đó để thảo luận thi hành
kế hoạch quân sự. Những đơn vị này chịu sự chỉ đạo của cấp trên trực tiếp, không chịu trách nhiệm với
địa phương chỉ đóng tạm thời. Các uỷ viên chính trị chịu trách nhiệm với uỷ viên cấp trên và cấp mình. Từ
uỷ viên trung ương đến uỷ viên trung đoàn có sự liên lạc chỉ đạo về những vấn đề chuyên môn, không trái
với chủ trương, chính sách của Trung ương. Từ khu trở xuống, chỉ có quyền thảo luận, tìm phương pháp
thi hành chủ trương kế hoạch cấp trên. Trong trường hợp đứt liên lạc hoặc do công việc địa phương xảy
ra, các khu có thể định đoạt mọi việc thuộc cấp mình, nhưng không đi quá vào phạm vi chuyên môn.
Uỷ viên chính trị cấp trên có thể ra chỉ thị cho cấp dưới, và không trái với đường lối, chính sách của cấp
trên và cấp uỷ địa phương.
Báo cáo của các cấp phải gửi cho cấp mình và uỷ viên cấp trên, để giúp việc các uỷ viên chính trị, có ba
tiểu ban: tuyên huấn, kiểm tra và tổ chức.
ở mỗi cấp lại đặt ra một uỷ ban kỷ luật gồm uỷ viên chính trị và những đồng chí có thành tích hoặc lâu nǎm
trong Đảng ở cấp ấy có nhiệm vụ xem xét cán bộ, cân nhắc, khen thưởng và trừng phạt.
Trung ương đặt ra một uỷ ban quân sự để đặt kế hoạch quân sự và tổ chức bộ đội, thành phần gồm các
cán bộ quân sự của Đảng như các đồng chí phụ trách chỉ huy bộ đội, tham mưu chính trị, v.v. và những
tướng tá có nǎng lực của Đảng.
Để thực hiện nghị quyết này, sẽ có một cuộc xếp đặt lại cán bộ các cấp trong bộ đội.
3. Lập các Đặc biệt khu
Những khu vực đặc biệt quan trọng như Hà Nội, Sài Gòn, Chợ Lớn, Hòn Gai, đặt là các biệt khu. Mỗi nơi
này được coi như một khu, và có quyền lợi như một khu thường. Sở dĩ phải đặt ra như thế là cốt để Trung
ương đặc biệt giúp đỡ và phụ trách, nhưng có thể tạm thời giao cho liên khu uỷ lân cận phụ trách, báo cáo
và chỉ thị, nghị quyết của Trung ương sẽ gửi thẳng đến các đặc khu, nhưng đồng thời có một bản thứ hai
gửi cho một Khu uỷ được uỷ nhiệm phụ trách. Đặc biệt khu gửi báo cáo lên Trung ương, đồng thời cũng
phải gửi cho Khu uỷ được uỷ nhiệm phụ trách mình. Các khu được uỷ nhiệm phụ trách phải hết sức chú ý
đến công việc của đặc biệt khu, chứ không phải để mặc Trung ương làm cho kết quả có thể trái ngược lại
(đặc biệt chú ý thành ra lại không chú ý).
4. Bỏ Ban dân vận
Các Ban dân vận từ nay sẽ bỏ đi, để các ban vận động các giới trực tiếp với cấp uỷ và không phải ở đâu
cũng nhất thiết lập ra tất cả các ban như hiện giờ.
Các ban này phải tuỳ theo thời gian và hoàn cảnh mà đặc biệt chú ý hay không. Trong trường hợp một ban
vận động một giới không cần thiết nữa sẽ bỏ đi. Các tổ chức quần chúng đã có đảng đoàn đảm nhận. Ban
vận động các giới chỉ nên tổ chức đến khu và khi nào thật cần thiết thì mới đến tỉnh. ở các cấp dưới đã có
đảng đoàn thi hành kế hoạch vận động các giới của cấp trên. (Điều này sửa lại nghị quyết Hội nghị cán bộ
lần thứ IV, tháng 5-1948).
5. Lập tiểu ban nghiên cứu của Đảng trong các tổ chức chính quyền
ở các cơ quan chính quyền toàn quốc như hành chính kháng chiến nên lập ra các tiểu ban nghiên cứu về
tổ chức, thành phần là các đồng chí hiện phụ trách ở trong các cơ quan đó. Tiểu ban này sẽ mật thiết liên
lạc với Bộ tổ chức trung ương có trách nhiệm nghiên cứu về các hình thức tổ chức chính quyền và việc
điều chỉnh cán bộ để giúp cho Bộ tổ chức trung ương hiểu biết về vấn đề tổ chức mọi mặt. Vì ngày nay Bộ
tổ chức của Đảng mới chỉ biết những công việc tổ chức nội bộ của Đảng mà thôi, điều thiếu sót này làm
cho quan niệm lãnh đạo của một số đồng chí đôi khi không được đầy đủ, sinh ra làm đâu biết đấy, không
có sự nhìn nhận bao quát.
6. Các chi bộ và các đồng chí ngoại quốc hoạt động ở Đông Dương
Tất cả các đồng chí ngoại quốc hiện hoạt động ở Đông Dương đều sáp nhập vào các chi bộ địa phương,
trừ những chi bộ quan trọng thì do Trung ương hoặc khu uỷ phụ trách. Đồng chí nào có nǎng lực, đủ điều
kiện, được tham gia các cấp uỷ.
7. Củng cố đường giao thông liên lạc
Củng cố đường giao thông suốt Trung, Nam, Bắc (đặt các trạm điện đài), Liên khu IV và Nam Trung Bộ
phải đảm nhiệm.
Nói thêm. Sửa lại tổ chức quân đội ở nam Trung Bộ và Nam Bộ.
Vì tổ chức đảng và hành chính kháng chiến ở Nam Trung Bộ, Nam Bộ là liên khu và xứ. Nếu tổ chức quân
đội cứ để các khu như hiện nay, làm cho việc thống nhất chỉ huy không thể thực hiện được. Muốn cho các
bộ máy chỉ huy kháng chiến, Đảng và quân sự ǎn khớp với nhau, cần sửa lại tổ chức quân đội như sau:
a) Ba khu Nam Bộ lập một Bộ chỉ huy chung phụ trách quân sự toàn ba khu Nam Bộ.
b) Ba khu Nam Trung Bộ cũng thống nhất làm một liên khu, có một bộ chỉ huy.
Làm như trên thống nhất được sự chỉ đạo cả mọi mặt, bỏ bớt được các bộ máy của nhiều khu nhỏ (các
khu bộ ở hai nơi này hiện rất nặng nề, số người không chiến đấu nhiều bằng số người chiến đấu ở Nam
Bộ), tách được nhiều cán bộ khá về phụ trách và củng cố các trung đoàn thống nhất chỉ huy, tránh được
địa phương chủ nghĩa (khu nọ tước súng của khu kia như ở Nam Bộ).
*
* *
Những vấn đề trên cần được giải quyết dứt khoát để cho bộ máy toàn Đảng chạy đều và theo kịp với sự
tiến triển càng ngày càng mạnh mẽ của Đảng ta.
Xứ uỷ Nam Bộ, liên khu uỷ miền Nam Trung Bộ, các ban cán sự Lào, Miên, Xiêm phải lấy những chỉ thị
nghị quyết thuộc về tổ chức của Trung ương từ trước đến giờ để thi hành cho thống nhất trong toàn Đảng.
Hiện có nhiều chi bộ tổ chức chưa sát với những nghị quyết hiện hành, nên xem xét lại cho được thống
nhất.
III- Mở rộng và thực hiện dân chủ trong đảng
Từ ngày thành lập đến bây giờ, Đảng ta phải trải qua bao nhiêu giai đoạn hoạt động rất khó khǎn. Vì cơ sở
đảng còn hẹp, cán bộ rất thiếu phải đề phòng mật thám và sự phản phúc nên toàn Đảng phải áp dụng
nguyên tắc bí mật hoàn toàn trong công tác hàng ngày, không những đối với tai mắt đế quốc, mà cả với
các đảng viên nữa.
Các việc phần nhiều do cấp trên quyết định, các cấp dưới ít khi được biết công việc của cấp trên, các cơ
quan phụ trách của Đảng đều do cấp trên chỉ định. Trong hoàn cảnh bí mật, quyền dân chủ trong Đảng bị
hạn chế rất nhiều.
Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng chiếm địa vị ưu thắng về sự hoạt động của mình nhưng quyền
dân chủ trong Đảng cũng chưa được mở rộng bao nhiêu. Các cơ quan chỉ đạo từ trên xuống dưới không
những do cấp trên chỉ định, mà mỗi cấp lại còn do một uỷ viên cấp trên trực tiếp điều khiển, có khi một uỷ
viên cấp trên lại phụ trách quá nhiều công việc thành ra bao biện. Công việc của chi bộ thường do cán bộ
chuyên nghiệp xếp đặt cả. Hiện nay nhiều khu, tỉnh Bắc Bộ đã đi dần dần đến chỗ bỏ chế độ phụ trách,
thay thế bằng việc kiểm tra. Từ Nam Trung Bộ trở vào Nam thì chưa có sự thay đổi, các cấp đều có uỷ
viên cấp trên trực tiếp điều khiển.
Cách làm việc như thế làm cho cấp dưới và chi bộ ỷ lại vào người phụ trách, không có hay không chịu có
sáng kiến về những công việc của mình, chỉ trông mong cấp trên.
Trong mỗi cấp, phần nhiều công việc do bí thư hoặc uỷ viên phụ trách quyết định. Các uỷ viên khác chỉ biết
công việc nào mà mình chịu trách nhiệm. Trong các ban và các đảng đoàn cách thức làm việc cũng thiếu
tập thể lãnh đạo. Cá nhân bao biện, có khi ra chỉ thị nghị quyết cũng tự cá nhân làm, không thảo luận.
Cách làm việc này không những công tác không chạy, thiếu sót, mà còn sinh ra bản vị chủ nghĩa.
Việc kiểm soát giữa trên và dưới không được thấu suốt, công việc cấp nào chỉ biết ở cấp ấy, ở nơi còn chế
độ phụ trách thì hoàn toàn phó mặc uỷ viên phụ trách, nơi đã bỏ rồi thì thiếu kiểm soát, làm cho giữa trên
và dưới trở nên lỏng lẻo.
Cách thức làm việc như trên không còn thích hợp với sự phát triển của Đảng về mọi mặt như hiện giờ.
Đảng đã đến lúc trưởng thành, cán bộ đã tạm đủ cung cấp cho mọi công việc. Hoàn cảnh ngày nay cho
phép Đảng mở rộng và thực hiện nền dân chủ trong toàn Đảng, tình thế kháng chiến bắt buộc các cơ quan
chỉ đạo các cấp của Đảng phải tự động lãnh đạo mọi mặt công tác của mình, không thể trông chờ vào cấp
trên như trước. Vì vậy phải:
1. Bầu ban chỉ đạo các cấp, bỏ lệ chỉ định
Cơ quan chỉ đạo các cấp từ chi bộ cho đến Trung ương phải khai đại biểu hội nghị, quyết định chương
trình hành động của cấp mình, bầu ra ban Chấp uỷ cấp ấy. Ban chấp hành trung ương cũng triệu tập Đại
hội toàn quốc để báo cáo công việc quyết định đường lối, chính sách của Đảng, bầu Ban chấp hành trung
ương.
Cấp trên chỉ chỉ định Ban Chấp uỷ nơi nào trong hoàn cảnh bất đắc dĩ mà thôi.
Tuy không chỉ định toàn ban Chấp uỷ cấp dưới nữa, nhưng theo đúng điều lệ hiện hành, bí thư và phó bí
thư cấp dưới sau khi được bầu phải được cấp trên chuẩn y, hoặc nếu các uỷ viên hoặc toàn cấp uỷ dưới
do đại biểu hội nghị bầu, nhưng xét ra không đủ điều kiện, cấp trên có thể thay đổi từng phần, hoặc bầu
lại, hay tạm thời chỉ định người thay thế (chỉ ở trường hợp bất đắc dĩ). Gặp trường hợp thiếu một vài cấp
uỷ viên thì sẽ do cấp trên chỉ định theo đề nghị của cấp uỷ dưới hoặc nếu có thể thì do Hội nghị cán bộ
bầu thêm.
Nam Bộ, Nam Trung Bộ phải khai đại biểu hội nghị bầu ra Ban Chấp hành các cấp. Bầu người vào các cấp
bộ không những chỉ chú trọng về nǎng lực mà còn chú ý về thành phần xã hội. Phải phối hợp cán bộ mới
với cán bộ cũ, người kém, người khá và phải đặc biệt chú ý thành phần công nhân trong các cấp chỉ đạo.
Khi để cho các đảng bộ tự bầu lấy người chấp hành công việc cấp mình phải đề phòng bọn gian tế có thể
lợi dụng cơ hội Đảng mở rộng và thực hiện quyền dân chủ mà chen vào các cấp bộ đảng hoặc những
người chỉ nói giỏi còn công tác thực hành thì không có gì, hoặc làm hỏng việc của Đoàn thể.
2. Sửa soạn cho các cấp tự động lãnh đạo, bỏ uỷ viên phụ trách
Khi đã để cho địa phương tự động, phải kịch liệt công kích những bệnh địa phương, quân phiệt, bè phái,
hiện đương thịnh hành ở một vài cơ thể của Đảng, phải thực hành việc kiểm soát cho chặt chẽ.
Nam Trung Bộ, Nam Bộ và một vài nơi thuộc Bắc Bộ vẫn còn áp dụng chế độ uỷ viên phụ trách.
Nếu trong hoàn cảnh cấp ủy nào còn non nớt thì việc đặt uỷ viên cấp trên bên cạnh để kèm là rất cần, uỷ
viên này có quyền quyết định sau cùng, nhưng trong khi làm việc uỷ viên phụ trách phải sửa soạn để cho
cấp uỷ này đi đến tự đảm nhiệm lấy công việc của mình, không nên vì một vài điều kiện thiếu sót cứ duy trì
mãi chế độ chỉ định hoặc phụ trách không chịu cất nhắc người mới lên các cấp chỉ đạo. Nên dìu dắt bằng
những cách:
a) Chỉ theo dõi công việc, giúp đỡ ý kiến khêu gợi sáng kiến để cho tự giải quyết mọi công việc và chịu lấy
trách nhiệm.
b) Sau một việc, hoặc sau một thời gian nhất định, họp các cấp lại kiểm thảo công việc (để cho cấp uỷ tự
kiểm thảo trước, người phụ trách chỉ kết luận khi mọi người đã phát biểu đầy đủ ý kiến).
3. Mở hội nghị thường lệ và hội nghị bất thường
Các cấp uỷ phải theo đúng điều lệ hội nghị thường lệ triệu tập đại biểu hội nghị. Ngoài ra các cấp uỷ nǎng
mở những cuộc hội nghị cán bộ để cho cán bộ cấp dưới và các cán bộ chuyên môn được tham gia thảo
luận công việc chỉ đạo chung. Những cuộc hội nghị này, cấp uỷ triệu tập nên để cho mọi người kiểm thảo
công việc của mình trong phạm vi rộng, hẹp tuỳ theo trình độ người đến dự. Khi có việc quan trọng xảy ra
ở địa phương hay có một biến chuyển lớn trong nước hoặc có một chuyển hướng chính sách và công tác
của đoàn thể, các cấp ủy cũng triệu tập cán bộ hội nghị rộng rãi để nhận định công việc mới và đặt kế
hoạch công tác nếu cần.
4. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Nguyên tắc làm việc này, chúng ta đã nhắc đi, nhắc lại rất nhiều lần, nhưng thực tế chưa cấp chỉ đạo nào
đã thực hiện được. Trong hoàn cảnh kháng chiến, việc đi lại khó khǎn nhưng không phải vì đó mà mọi việc
đều do cá nhân quyết định, hoặc ai làm việc gì, chỉ biết việc ấy.
Muốn thực hiện tập thể chỉ đạo, những vấn đề quan trọng phải đem bàn trong toàn thể cấp uỷ hay ít nhất
cũng ở Ban Thường vụ, thực hành tập thể chỉ đạo chú trọng những điểm lớn về chủ trương, chính sách
mọi mặt không phải cứ luôn luôn khai hội bàn công việc vặt. Như thế cấp uỷ giẫm chân lên công việc hàng
ngày của Ban Thường vụ hay vǎn phòng. Tập thể lãnh đạo không phải bất cứ lúc nào cũng triệu tập hội
họp, mà phải ấn định kỳ hạn rõ ràng trừ tình thế và công việc đặc biệt.
Trong hoàn cảnh kháng chiến, tuy tập thể lãnh đạo, nhưng khi cần thiết cấp bách và chỉ trong trường hợp
này, người bí thư cấp uỷ có quyền một mình quyết định công việc rồi báo cáo sau.
5. Mở rộng phê bình và thực hiện tự phê bình trong Đảng.
Muốn cho sự chỉ trích trong Đảng thực hiện được đều đặn, cấp trên theo thường lệ phải báo cáo công việc
mình làm với cấp dưới và ngược lại. Việc báo cáo và kiểm tra không làm được điều hoà, tự chỉ trích không
có điều kiện thực hiện. Cấp nào cũng phải thực hiện tự chỉ trích không những dành trong các cuộc họp
riêng để kiểm thảo mọi việc mà trong các nội san cũng cần phải đả phá những tư tưởng và hành động sai
lầm.
Tự chỉ trích nhằm vào những vấn đề chung như sự thi hành đường lối, chính sách, những công tác lớn,
không phải chỉ chú ý về tư cách cá nhân và những điều vụn vặt.
Thực hiện phê bình và tự phê bình, các cấp uỷ phải biết đề phòng ngay từ lúc đầu bệnh dân chủ cực đoan,
phê bình, chỉ trích bừa bãi các cấp chỉ đạo, làm cho mất cả uy tín làm việc. Trái lại các cấp dưới và các
đồng chí phải tranh đấu để thực hiện phê bình và tự phê bình trên nguyên tắc xây dựng và tiến bộ. Phải
kịch liệt đả phá những thói bới móc vụn vặt, hoặc bị phê bình đâm ra thù ghét. Phê bình và tự phê bình
phải thẳng thắn, cương quyết, không điều hoà nhượng bộ những điều sai lầm của các cấp bộ và các cá
nhân, nhưng phải đứng trên lập trường phê bình để sửa chữa và đoàn kết. Rất có thể do bọn gian tế chui
vào hàng ngũ ta lợi dụng phê bình và tự phê bình để phá vỡ đoàn kết nội bộ của Đảng. Các cấp chỉ đạo
phải tinh tường trong khi làm việc.
IV- Thống nhất tư tưởng và hành động
Trong Đảng hiện nay đã thống nhất tư tưởng hành động chưa? Nếu nhìn chung thì toàn Đảng vẫn chấp
hành những đường lối, chính sách đúng đắn của Trung ương, vẫn hành động nhất trí, nhưng đi sâu vào
nội bộ chúng ta thấy những tư tưởng rất là nguy hại, những hành động đi ngược với quyền lợi cách mạng
đã và đang bắt đầu nẩy nở ở một vài bộ phận.
Trước đây, trong bức thư Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ thân mến viết cho các đồng chí, Người cũng đã nói nhiều
về những tư tưởng và hành động sai lầm của chúng ta. Sau một thời gian kiểm thảo và tự chỉ trích, chúng
ta cũng sửa chữa được ít nhiều, nhưng vẫn chưa được hết và còn trầm trọng hơn nữa vì có những biến
chứng mới phát sinh. Chúng ta không ngần ngại đem phô bày ra đây một vài tư tưởng và hành động nguy
hiểm để cùng nhau tìm phương pháp sửa chữa.
a) Chia rẽ nội bộ:
Ngoài Khu 10 và Khu 5, 6, nội bộ mỗi ngày càng đoàn kết thống nhất, thì nhiều khu hiện nay có xích mích
giữa các đồng chí trong Khu uỷ, Quân khu uỷ, giữa các đồng chí ở cấp bộ quân sự, đảng đoàn chính
quyền với cấp đảng bộ bên ngoài, làm cho bộ máy của Đảng chạy không đều, công cuộc lãnh đạo kháng
chiến gặp rất nhiều trở ngại, các đồng chí thật đã có tội với Đảng và dân tộc. Là những người lãnh đạo
đáng lẽ các đồng chí phải tượng trưng tinh thần đoàn kết trong Đảng và quần chúng, thì lại thực hành sự
chia rẽ hơn ai hết. Đã bao lần ở các cuộc hội nghị và nhiều bức thư Hồ Chủ tịch và Trung ương kêu gọi
các đồng chí "đoàn kết", "thống nhất" và các đồng chí cũng hứa hẹn đã nhiều, nhưng đâu lại hoàn đấy, lời
nói của các đồng chí không bao giờ đi đôi với việc làm.
Nguyên nhân sự chia rẽ phần lớn là do cá nhân chủ nghĩa mà ra. Các đồng chí không nghĩ đến quyền lợi
của Đảng là tối cao, chưa hy sinh được cái "thằng tôi" cho Đảng. Ai cũng nghĩ đến cá nhân của mình to
quá. Hơi một chút thì ganh tỵ tranh giành ảnh hưởng của nhau, nói xấu người khác để đề cao mình lên,
thấy ai hơn thì ghét, nâng người nọ dìm người kia, người này không phục người khác, tự cao tự đại cậy
mình có tài, có nǎng lực một chút thì coi đồng chí khác không bằng nửa con mắt. Lúc nào cũng nghĩ đến
quyền hành địa vị cá nhân, khi nào không có quyền hành địa vị thì đâm ra bất mãn, chán nản. Tất cả
những cá tính trên không những nó làm cho nội bộ lục đục dần dần có thể đi đến bè phái nguy hiểm. Cũng
có khi vì những chính kiến bất đồng hay sự chung sống hàng ngày có nhiều điểm nhỏ nhặt, phức tạp, mà
sinh ra xích mích. Nhưng đấy cũng chỉ là những điểm phụ nếu chúng ta biết gạt cá nhân ra ngoài thì chúng
ta vẫn đoàn kết chặt chẽ vì Đảng vẫn là nơi để chúng ta gặp nhau thân mến mà quên hết tất cả những cái
gì riêng mình.
Quân thù hiện nay chỉ đương chờ dịp nội bộ của ta chia rẽ là tìm cách phá hoại và chỉ có thừa những dịp
đó quân thù mới mong thắng nổi ta. Nguy cơ ấy đã rõ, chúng ta phải tìm mọi phương pháp chấm dứt tình
trạng chia rẽ nội bộ hiện nay, là phải thực tâm đoàn kết nhất trí.
Các cấp đảng bộ hãy nỗ lực thi đua đoàn kết làm cho đại gia đình cộng sản chúng ta không còn phải nhắc
đến hai chữ chia rẽ.
Những phần tử nào cố tình chia rẽ nội bộ thì chẳng trước thì sau sẽ bị đào thải, và kỷ luật của Đảng nhất
định không dung thứ.
b) Vô kỷ luật
Đảng ta có một kỷ luật sắt rất chặt chẽ , nó buộc người đảng viên không được có một hành động, một ý
chí gì riêng biệt trái với quyền lợi của Đảng. Nhờ có kỷ luật đó nó tôi luyện, cho nên Đảng ta mỗi ngày một
cứng rắn trưởng thành. Nhưng trong quá trình lớn mạnh của Đảng những đảng viên phần nhiều mới là
non kém nên thường phạm kỷ luật và đã bị khai trừ ra khỏi Đảng khá đông (gần 1000 đảng viên trong nǎm
1947), phần nhiều những lỗi phạm phải là tiền tài, hủ hoá, bê trễ công việc, ít có những lỗi chống lại kỷ luật
của Đảng. Hơn nữa là những đảng viên mới chưa qua những thời gian rèn luyện, thử thách nhiều nên
những đồng chí đó càng không đáng trách lắm. ở đây chúng ta muốn nói đến những đồng chí phụ trách đã
có một trình độ giác ngộ khá cao mà lại có những hành động như một người không đảng, coi thường chỉ
thị, nghị quyết của Đảng, trước mặt thì phục tùng, sau lưng thì tự do hành động coi thường cấp bộ phụ
trách, vô tình chống lại đường lối chính sách của Đảng. Lại có những đồng chí có trình độ vǎn hoá và có
nǎng lực ít nhiều thường tự cao tự đại khinh miệt những đồng chí thợ thuyền, nông dân ở cấp bộ lãnh đạo
mình, nên tỏ ra những hành động không chịu phục tùng và rồi có thể đi đến chỗ chống lại cấp bộ của
Đảng. Kỷ luật bắt ta phải phục tùng cấp bộ của Đảng, các đồng chí đó là tiêu biểu cho cấp bộ Đảng, chúng
ta khinh miệt tức là chúng ta khinh miệt Đảng. Nếu chúng ta có nǎng lực thì phải hết lòng giúp đỡ các đồng
chí đó mau tiến bộ để làm tròn nhiệm vụ chung. Tuy chúng ta có vǎn hoá và nǎng lực nhưng đứng về
phương diện khác, chúng ta nhất định còn non kém hơn.
Những hành động vô kỷ luật kể trên đều do đầu óc tự cao, tự đại cá nhân anh hùng của giai cấp tiểu tư
sản sinh ra. Nếu không kịp thời sửa chữa nó sẽ làm hại cho Đảng không ít và một ngày kia nó có thể phản
lại quyền lợi của giai cấp và dân tộc. Gương Nam Tư đã cho Đảng ta một bài học rất quý báu.
c) Dân chủ cực đoan
Trong khi mở rộng dân chủ trong Đảng, những tư tưởng dân chủ cực đoan đã bắt đầu chớm nở.
Một số đồng chí ở cấp bộ chỉ đạo có quan niệm cho quyền hạn của Ban Thường vụ ở một cấp bộ là nhỏ
hơn Ban Chấp uỷ, nên muốn Ban Thường vụ muốn giải quyết việc gì (dù là việc thường) cũng phải hỏi ý
kiến của các đồng chí trong Ban Chấp hành. Do đó đã coi thường Thường vụ. Sự thực Ban Thường vụ
đứng về nguyên tắc, quyền hạn nhỏ hơn Ban Chấp hành, nhưng nó được uỷ nhiệm có quyền giải quyết
những công việc hàng ngày, trừ những việc quan trọng phải hỏi ý kiến toàn Ban. Nhất là trong lúc kháng
chiến đôi khi nó có quyền quyết định những việc quan trọng rồi báo cáo toàn Ban Chấp uỷ sau. Có thế
công việc mới nhanh chóng, không bỏ lỡ thời cơ. Như vậy đứng về công việc thực tế hiện tại và tinh thần,
nó có quyền hơn. Nếu cứ có quan niệm như trên là theo nguyên tắc máy móc và dân chủ cực đoan. Có
những đồng chí lại cho một cấp uỷ của Đảng không có quyền thi hành kỷ luật dù là phê bình đối với uỷ
viên cùng cấp, vì cho cùng cấp ai cũng như ai nên không có quyền thi hành kỷ luật và e sau khó làm việc
với nhau. Tư tưởng này lại còn sặc mùi tiểu tư sản, nó biểu lộ thái độ nể nang không dám tranh đấu nội
bộ, lúc nào cũng chỉ muốn giữ "êm thấm" cho xong việc.
Trong các cuộc bầu cử các cấp mới rồi có một số đồng chí đã không hiểu rõ ý nghĩa dân chủ trong Đảng
cho nên việc bầu các ban Chấp hành cứ để mặc, muốn bầu ai thì bầu, không cần có sự lãnh đạo, như vậy
mới thật dân chủ. Các đồng chí đã lầm, từ khi còn bí mật các cấp uỷ đều do sự chỉ định của cấp trên, đến
nay có hoàn cảnh Đảng mở rộng dân chủ để bầu lại các cấp uỷ, nhưng do Đảng chưa ra công khai các
đồng chí đi dự hội nghị chưa biết rõ được hết thành tích, nǎng lực từng người, hơn nữa trình độ nhận thức
của một số đồng chí còn non kém thì làm sao biết để lựa chọn hết những người xứng đáng. Nên việc bầu
cử các cấp uỷ cần có sự lãnh đạo công bằng, sáng suốt là lẽ dĩ nhiên. Nhưng đứng về nguyên tắc dân chủ
các đồng chí vẫn có quyền bầu ai thì bầu. Nếu cứ để buông trôi tự do bầu thì rất nguy hại, không những
sự lựa chọn cấp uỷ không được xứng đáng mà có khi những phần tử phản động chui vào lợi dụng cơ hội
để quấy rối hàng ngũ ta. Chỉ có khi nào Đảng đã công khai hoạt động mạnh mẽ, trình độ đảng viên đã cao
đủ sức nhận định, lựa chọn được người xứng đáng, thì lúc đó mới không cần có sự lãnh đạo. Ngoài
những tư tưởng hành động sai lầm kể trên, còn những bệnh chủ quan, quân phiệt, quan liêu, địa phương
chủ nghĩa, nó vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi, cần phải có sự tích cực sửa chữa.
Muốn tẩy trừ những tư tưởng, hành động sai lầm, thì chúng ta phải:
1. Mở rộng phê bình và thực hiện tự phê bình (đã nói ở mục mở rộng dân chủ trong Đảng).
2. Phải có sự kiểm tra từ trên xuống dưới, để kịp thời sửa chữa những khuyết điểm. Các cấp uỷ phải gần
gũi các đồng chí để hiểu rõ tình hình, không chỉ ngồi một nơi nghe báo cáo. Hàng ngày giữa các đồng chí
phải kiểm tra công việc của nhau luôn (Hội nghị cán bộ lần thứ IV đã nói rõ vấn đề kiểm tra).
3. Phải giáo dục đảng viên để nâng cao trình độ lý luận và tinh thần. ấn định những tài liệu cho các đồng
chí nghiên cứu học tập để mỗi ngày các đồng chí thấm nhuần tư tưởng Mác - Lênin.
Thống nhất tư tưởng hành động quyết định sự sống còn của Đảng và sự thắng bại trong cuộc kháng chiến
do Đảng ta lãnh đạo hiện nay, nên chúng ta phải luôn luôn mạnh dạn dám nhìn thẳng vào óc mình, vào
lòng bạn bằng cặp kính hiển vi để moi ra những cǎn bệnh tiểu tư sản mà tìm phương pháp sửa chữa, dù
có phải dùng đến con dao của nhà giải phẫu cắt cái ung nhọt ấy đi, chúng ta cũng không từ. Đứng trên lập
trường đoàn kết thân mến, chúng ta cương quyết đấu tranh nội bộ không chút nể nang để đem lại sự
thống nhất, tư tưởng hành động cho Đảng.
V- Nâng cao trình độ lý luận của đảng
Đảng ta trưởng thành trong một xứ thuộc địa lạc hậu nên trình độ lý luận cán bộ, đảng viên phần đông non
nớt. Đến nay Đảng giữ chính quyền và mỗi ngày một lớn mạnh, trình độ nhiều cán bộ không đi kịp với sự
đòi hỏi của hoàn cảnh, nên việc nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ và đảng viên là một việc rất cấp bách.
Nhưng muốn nâng cao trình độ lý luận thì phải có tài liệu, nhìn đến tài liệu thì thật chúng ta quá nghèo nàn.
Tuy có ít cuốn có giá trị nhưng in ít quá, không phổ cập được đến các chi bộ. Vì vậy khẩu hiệu học tập
nhiều nơi đặt ra thành khẩu hiệu suông; nhiều kinh nghiệm quý báu, nhất là từ khi giành chính quyền đến
nay, chúng ta không biết tổng kết để viết ra lịch sử Đảng, trong 18 nǎm biết bao nhiêu chủ trương chính
sách qua những giai đoạn cách mạng chúng ta không chú ý sưu tầm xuất bản để làm giàu cho lý luận cách
mạng của Đảng.
Bây giờ đến lúc chúng ta phải bắt tay ngay vào việc:
1. Trung ương phải cử ngay một ban viết lịch sử Đảng, chịu trách nhiệm sưu tầm và viết làm sao cho trong
một thời gian ngắn phải xong. Nguyên tắc viết sử phải chú trọng vào phần chủ trương chính sách hơn là
phần lịch sử. Trong sinh hoạt nội bộ, thêm một mục chuyên về lý luận.
2. Mỗi cấp đảng bộ từ tỉnh trở lên phải tổ chức một tiểu ban sưu tầm tổng kết và phổ biến kinh nghiệm, đặt
dưới quyền của Ban tuyên huấn và phải có kế hoạch làm việc. Các đồng chí và các Đảng đoàn các ngành
hoạt động của đảng phải giữ những tài liệu cần thiết cho ban này, nhất là ngành hành chính, quân sự và
đảng vụ.
3. Những đồng chí có nǎng lực viết ở mọi ngành hoạt động của Đảng như quân sự, đảng vụ hay các
ngành chuyên môn chính quyền phải để thì giờ viết những tập sách nhỏ phổ thông về những vấn đề mà
mình phụ trách.
4. Các khu, các tỉnh phải tiếp tục in lại những sách báo cần thiết để cho các chi bộ đủ sách học tập nghiên
cứu (những sách in lại do Ban tuyên huấn ấn định).
5. Những chỉ thị, nghị quyết quan trọng của Trung ương và các khu trước đây và từ nay trở đi phải in làm
tài liệu nghiên cứu.
VI- sửa đổi lối làm việc
Đảng ta mỗi ngày một lớn mạnh, cách làm việc đã dần dần đi vào lề lối khoa học. So sánh lối làm việc có
nền nếp quy củ thì Liên khu 3 hơn cả, còn Khu 4, Khu 5 và Nam Bộ thì còn kém, tuy nhiên trong lúc giao
thời, chúng ta không thể nào tránh được những khuyết điểm. Có nơi vì khoa học quá mà đã đi đến chỗ
nguyên tắc máy móc, nhưng rất nhiều nơi lại quá thủ công nghiệp và nhất là theo chủ nghĩa đại khái, làm
một việc gì không bao giờ có điều tra, nghiên cứu cho tường tận; không có làm những bản thống kê, nên
kế hoạch đặt ra thường không sát. Một thí dụ như việc tǎng gia sản xuất, nhiều địa phương không điều tra
nghiên cứu nền kinh tế ở nơi mình ra sao, không có thống kê xem xét qua sản xuất đã thu lượm được thế
nào, nên không có một kế hoạch tǎng gia sản xuất, ai làm được đến đâu hay đến đấy nên mới có hiện
tượng nơi thừa nơi thiếu. Kế hoạch thi đua hiện nay cũng đương ở trong tình trạng ấy, nếu không sửa
chữa thì kết quả không được bao nhiêu.
Kế hoạch đặt ra lại không có kiểm tra thúc giục. Bao nhiêu chỉ thị, nghị quyết từ Trung ương cho đến các
cấp, không mấy khi kiểm điểm lại xem đã thi hành được những gì để rút kinh nghiệm. Cứ buông trôi làm
được đến đâu hay đến đó, nên không sao biết được chủ trương đúng hay sai để sửa chữa kịp thời. Các
cấp lại thường không báo cáo rõ những công việc làm cho cấp trên nhất là Nam Bộ, miền Nam Trung Bộ,
tuy đường giao thông vẫn được và điện đài vẫn liên lạc hàng ngày, mãi đến chuẩn bị Đại hội, thúc giục
nǎm lần bảy lượt mới được một bản báo cáo sơ lược. Như vậy làm sao cho Trung ương hiểu được tình
hình và chủ trương cho đúng và kịp thời. Do đó Trung ương chỉ nhìn được đến miền Bắc mà gần như sao
lãng miền Nam nên đã để xảy ra những việc đáng tiếc. Nói ngay đến các khu miền Bắc như Khu 4, Khu 1
báo cáo tam cá nguyệt đầu nǎm 1948 đến nay vẫn chưa có, Trung ương đành chịu không thể nào làm
tổng kết rõ ràng, đầy đủ được tình hình chung.
Ngoài ra cách làm báo cáo thường không khách quan, chỉ nói những điều hay, giấu những điều dở mà
chúng ta thấy ở một vài báo cáo hay ở trong một vài cuộc hội nghị, làm cho sự nhận định của cấp trên
thường sai lệch, nguy hiểm.
Các báo cáo ở cuộc hội nghị cũng phải quy định lại sao cho hợp lý, nhiều báo cáo rườm rà, chiếu lệ,
không có tổng quát đề ra được những điểm chính, hay nhiều khi lại nhắc lại điều trong báo cáo ở hội nghị
lần trước. Có khi báo cáo lại không có gì đề nghị hay đề nghị lại không ǎn nhịp với báo cáo.
Cuộc hội nghị muốn có kết quả không những phải báo cáo đầy đủ mà mỗi cuộc hội nghị chúng ta phải định
cho nó có một mục đích, một tính chất rõ ràng từ đầu nǎm đến giờ, nhiều cuộc hội nghị chồng chất lên
nhau cứ nhắc đi nhắc lại những vấn đề đã bàn ở hội nghị trước, làm cho hội nghị buồn tẻ, ít kết quả và
mất nhiều thì giờ.
ấy là chưa kể những cuộc hội nghị luộm thuộm nhưng khi đi vào hình thức lại quá trớn. Khuyết điểm này
các cấp cần phải dần dần sửa chữa.
Nói về cách lãnh đạo thì các cấp uỷ vẫn chưa thực hiện được sự lãnh đạo mọi mặt, phần nhiều chỉ chú ý
đến công tác nội bộ, còn công tác chính quyền thì hầu như khoán trắng cho đảng đoàn. Nhưng cũng có
nơi cấp uỷ lại choán hết công việc của đảng đoàn.
Để sửa chữa những khuyết điểm trên, chúng ta phải sửa đổi lối làm việc như sau:
1. Làm một việc gì từ to đến nhỏ đều phải có điều tra nghiên cứu, hết sức tránh bệnh đại khái chủ nghĩa.
2. Phải thực hiện khoa thống kê trong mọi ngành hoạt động.
3. Chủ trương công tác phải có kế hoạch rõ ràng và từng thời gian một.
4. Trong quá trình công tác phải có kiểm tra, thúc giục và rút kinh nghiệm.
5. Thực hành một nhiệm vụ công tác gì đều phải có báo cáo rõ ràng, khách quan và đúng thời hạn, coi việc
báo cáo là quan trọng.
Ngoài các báo cáo đặc biệt, các báo cáo thường lệ phải theo đúng kỳ hạn sau đây:
Chi bộ lên huyện, tuỳ địa phương quyết định.
Huyện lên tỉnh một tháng một lần.
Tỉnh lên khu ba tháng một lần.
Khu, tỉnh lên Trung ương ba tháng một lần.
6. Sửa đổi lại lối làm việc ở trong các cuộc hội nghị (cách tổ chức, báo cáo, tính chất và mục đích hội nghị).
7. Triệt để thực hiện sự lãnh đạo mọi mặt công tác của Đảng.
8. Miền Nam Trung Bộ và Nam Bộ phải tiến kịp lề lối làm việc ở miền Bắc.
Tất cả các cấp bộ phải nghiên cứu cuốn Sửa đổi lối làm việc.
VII - Chính sách cán bộ
Trong các cuộc hội nghị trước chúng ta đã nói nhiều về chính sách cán bộ nhưng đến nay vẫn còn nhiều
khuyết điểm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét