pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không
có lỗi thì áp dụng quy định đó’’, BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chính là
một trong những trường hợp được pháp luật quy định. Bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được hiểu là trách nhiệm của chủ sở hữu hoặc
người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho
người khác, phải bồi thường thiệt hại kể cả trong trường hợp chủ sở hữu hoặc
người chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ không có lỗi.
1.3 Đặc điểm của bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trong những trường hợp
BTTH ngoài hợp đồng, do đó ngoài những đặc điểm chung thì BTTH do nguồn
nguy hiểm cao độ cũng có những đặc điểm riêng.
+ Thứ nhất, BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trường hợp BTTH do
tài sản gây ra. Tức là thiệt hại xảy ra có nguyên nhân chính được xuất phát từ tài
sản mà không phải là hành vi của con người.
+ Thứ hai, BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra phải là trường hợp người bồi
thường phải bồi thường cho người bị thiệt hại ngay cả khi mình không có lỗi. Đây
là điểm khác biệt rất cơ bản với bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây
ra.
2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra
2.1 Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ
Pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mọi chủ thể trong xã hội và các
quan hệ pháp luật. Việc gây thiệt hại trái pháp luật là những thiệt hại do sự hoạt
động của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, pháp luật không cho phép. Những thiệt
hại về quyền và lợi ích chính đáng của chủ thể trong xã hội do chính sự hoạt động
của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của chủ
sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ.Thiệt hại phải do chính sự tác động của bản thân
5
nguồn nguy hiểm cao độ hoặc do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm gây ra.
Việc xác định thiệt hại là do “tác động của người” hay “tác động của vật” có ý
nghĩa vô cùng quan trọng khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Những trường hợp thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhưng do
“tác động của con người”, do hành vi của con người gây ra thì chỉ cần áp dụng
nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trường hợp thiệt hại xảy ra do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm cao độ,
hoàn toàn độc lập và nằm ngoài sự quản lý, kiểm soát của con người thì sẽ áp dụng
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra như: xe ô tô
đang chạy với tốc độ cao đột nhiên mất phanh, mất lái hoặc nổ lốp gây ra thiệt hại;
cháy, chập đường dây tải điện; cháy nổ trong nhà máy do trục trặc kỹ thuật…
Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ phải có tính trái pháp luật.
Hoạt động của xe cần trục, xe ủi… khi phá dỡ các công trình xây dựng trái phép
không thể coi là trái pháp luật. Có nhiều trường hợp do đặc tính của nguồn nguy
hiểm cao độ mà việc gây thiệt hại của những phương tiện này không bị coi là trái
pháp luật. Ví dụ, để bảo đảm an toàn giao thông đường sắt, những thiệt hại trên
đường sắt do tàu hỏa gây ra cho các chủ thể khác không bị coi là trái pháp luật và
ngành đường sắt không có trách nhiệm bồi thường.
Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
cũng loại trừ các trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi cố ý của người bị thiệt hại hoặc
do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết (Theo Điều 623 Bộ luật dân sự). Nói
tóm lại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là
trách nhiệm đối với sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao
độ chứ không phải thiệt hại do hành vi của con người.
2.2 Nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho “người xung quanh”.
Nguồn nguy hiểm cao độ do tính chất nguy hiểm của nó có thể gây thiệt hại cho
bất kỳ ai: chủ sở hữu, người đang chiếm hữu, vận hành, những người không có liên
quan đến nguồn nguy hiểm cao độ… Có những chủ thể do mối quan hệ sở hữu, lao
động mà họ trực tiếp tiếp xúc với nguồn nguy hiểm cao độ. Đối với chủ sở hữu, họ
6
phải tự chịu mọi rủi ro đối với thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Đối với người
bị thiệt hại trong khi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động, họ
sẽ được hưởng bồi thường theo chế độ bảo hiểm tai nạn lao động. Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm
cao độ gây thiệt hại cho những “người xung quanh”- là những người khi xảy ra
thiệt hại không có quan hệ lao động hoặc sở hữu liên quan đến nguồn nguy hiểm
cao độ nhằm để bảo vệ quyền được bồi thường cho những người này.
Thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ có thể là những thiệt hại về tài sản,
tính mạng, sức khỏe. Thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm – là những thiệt hại
chỉ có thể phát sinh do hành vi của con người nên không thuộc phạm vi tác động
của nguồn nguy hiểm cao độ.
2.3 Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn
nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra.
Hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ là nguyên nhân tất yếu, nguyên
nhân có ý nghĩa quyết định dẫn đến thiệt hại và thiệt hại xảy ra là kết quả của hoạt
động của nguồn nguy hiểm cao độ. Mối quan hệ nhân quả này chính là cơ sở xác
định trách nhiệm bồi thường của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ.
2.4 Điều kiện lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra.
Khi có việc gây thiệt hại, người bị thiệt hại được bảo đảm bồi thường ngay cả trong
trường hợp người gây thiệt hại không có lỗi. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra là một trong những trường hợp đặc biệt, theo đó, trách nhiệm
bồi thường phát sinh khi không cần xem xét đến điều kiện lỗi. Khoản 3 Điều 623
Bộ luật dân sự quy định “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗ, trừ các
trường hợp sau đây.
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
7
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.”
Nếu như các trường hợp bồi thường thiệt hại thông thường dựa trên sự suy
đoán lỗi thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
dựa trên sự suy đoán trách nhiệm đối với người có nghĩa vụ quản lý nguồn nguy
hiểm cao độ. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
chỉ được áp dụng khi hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ nằm
ngoài khả năng kiểm soát, điều khiển của người chiếm hữu, vận hành và là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của con
người trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ thì không
áp dụng trách nhiệm này mà sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói
chung. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không
loại trừ khả năng thiệt hại cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, trông
giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ nhưng hành vi của người trông
giữ, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ không phải nguyên nhân có tính quyết định
đến thiệt hại. Chủ sở hữu, người đang chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ không
được miễn trừ trách nhiệm bồi thường kể cả trong trường hợp họ chứng minh được
mình không có lỗi trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao
độ.
Dấu hiệu quan trọng nhất để xác định trách nhiệm này là hoạt động của nguồn
nguy hiểm cao độ chính là nguyên nhân trực tiếp, là yếu tố quyết định dẫn đến thiệt
hại. Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có thể hoàn toàn không
có lỗi của con người hoặc cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, điều
khiển, tuy nhiên lỗi ở đây chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với thiệt hại (như trước khi
xuống dốc, lái xe không kiểm tra lại phanh; lốp mòn nhưng chưa thay do chủ quan
nghĩ rằng xe vẫn vận hành tốt…). Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi, do hành vi
của người điều khiển nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách nhiệm này.
8
3. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra.
Căn cứ vào khoản 2, 3, 4 Điều 623 Bộ luật dân sự 2005 và Nghị quyết số
03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ
luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có thể được áp dụng với các chủ thể
sau:
- Chủ sở hữu;
- Người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ;
- Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ.
Việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể. Điều 165 Bộ luật dân sự quy
định nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu, theo đó “Chủ sở hữu được thực hiện mọi
hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được gây thiệt hại hoặc
làm ảnh hưởng đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của
người khác”. Khi có thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trước tiên người
ta nghĩ đến nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc tôn trọng và bảo vệ lợi ích chung,
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, vì vậy, trách nhiệm bồi thường trước
hết được đặt ra cho chủ sở hữu, trừ trường hợp chủ sở hữu chứng minh được trách
nhiệm thuộc về người khác. Chúng ta có thể xem xét các trường hợp sau:
3.1 Chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường là chủ sở hữu, người được chủ sở
hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ
Đoạn 2 khoản 1 Điều 623 BLDS 2005 đưa ra quy định: “ Chủ sở hữu nguồn
nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.”
Trong trường hợp chủ sở hữu đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy
hiểm cao độ mà nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức
khỏe cho người khác, dù có lỗi của chủ sở hữu trong việc sử dụng, quản lý, trông
9
coi nguồn nguy hiểm cao độ hay không thì căn cứ khoản 2 Điều 623 BLDS 2005
cũng như khoản a Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một
số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chủ sở hữu
hợp pháp của nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại.
Nếu chủ sở hữu đã chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao cho người khác theo ý chí của mình theo các giao dịch dân sự như cho thuê,
cho mượn hoặc chuyển giao theo nghĩa vụ lao động… thì theo quy định tại khoản
2 Điều 623 BLDS 2005 và được cụ thể hóa trong khoản b Điều 2 Mục III Nghị
quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP
ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, những người được chuyển giao quyền phải chịu
trách nhiệm bồi thường khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, trừ khi có thỏa
thuận khác.
Tuy nhiên, có thể thấy, trong một số trường hợp chủ sở hữu chuyển giao
nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác nhưng trên thực tế, chủ sở hữu vẫn có
quyền kiểm soát về mặt pháp lý (chiếm hữu pháp lý) đối với tài sản. Khi đó, mặc
dù không trực tiếp khai thác công dụng của tài sản nhưng đó cũng là một hình thức
chủ sở hữu thực hiện quyền sử dụng tài sản, cụ thể là khai thác lợi ích kinh tế từ tài
sản. Do đó, trường hợp nguồn nguy hiểm đã được chủ sở hữu giao cho người khác
thì cần “ phải xác định trong trường hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy
hiểm cao độ có phải là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay
không để xác định ai là người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại “theo tinh thần
tại khoản đ Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số
quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Ví dụ : Chủ sở
hữu nguồn nguy hiểm cao độ chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ theo hợp đồng
10
lao động thì trong trường hợp này, người được chuyển giao nguồn nguy hiểm cao
độ là những người làm công, ăn lương, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ để thực
hiện nghĩa vụ lao động. Nếu thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra đang trong
thời gian thực hiện nghĩa vụ lao động thì chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm bồi
thường khi có thiệt hại xảy ra. Còn nếu, người làm công đang chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ mà gây tai nạn nhưng không nằm trong thời gian thực hiện
nghĩa vụ lao động thì người làm công phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
theo quy định tại Điều 623 BLDS 2005.
Nếu chủ sở hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ đã chuyển giao quyền
chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác nhưng sự chuyển
giao này không tuân theo đúng các quy định của pháp luật và chủ yếu thường
thông qua các giao dịch dân sự như cho thuê, cho mượn thì khi có thiệt hại xảy ra
trên thực tế do hoạt động nội tại của bản thân nguồn nguy hiểm cao độ thì căn cứ
khoản b Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy
định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thì chủ sở hữu
nguồn nguy hiểm cao độ sẽ là người phải chịu trách nhiệm bồi thường Ví dụ: chủ
sở hữu xe máy biết người thuê xe của mình chưa có giấy phép lái xe nhưng vẫn
cho thuê và trong quá trình bên thuê sử dụng xe máy đã mất phanh gây ra thiệt hại.
Trong trường hợp này, chủ sở hữu chiếc xe máy ( bên cho thuê ) sẽ phải bồi
thường thiệt hại
3.2. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong tình thế cấp
thiết, sự kiện bất khả kháng, do lỗi cố ý của người bị thiệt hại :
Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn
nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cả
khi không có lỗi. Tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường của các chủ thể này sẽ không
11
được đặt ra trong một số trường hợp như: tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng
hoặc do lỗi cố ý của người bị thiệt hại.
“ Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang
thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của
mình hoặc của người khác mà không con cách nào khác là phải gây một thiệt hại
nhỏ hơn cần ngăn ngừa.” Để bảo vệ một lợi ích khác lớn hơn, để tránh những thiệt
hại lớn hơn có thể xảy ra, pháp luật dân sự Việt Nam tại khoản 3 Điều 623 quy
định thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong tình thế cấp thiết thì không
phải bồi thường.
Sự kiện bất khả kháng là những sự kiện phát sinh bất ngờ, đột xuất, nằm
ngoài ý thức, sự kiểm soát và lường trước của con người nói chung và của chủ sở
hữu, người được chuyển giao quyền sở hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ nói
riêng. Trong tình huống bất khả kháng, con người chỉ có thể lựa chọn cách một
cách xử lí nhất định nhằm giải quyết, khắc phục tương đối ổn thỏa nhất sự kiện đó.
Đồng thời, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng nằm ngoài tầm kiểm
soát của con người, do đó để đảm bảo quyền lợi cho chủ sở hữu, người được
chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ, khoản 3 Điều
623 BLDS 2005 quy định trường hợp này những chủ thể này không phải chịu trách
nhiệm bồi thường.
Tuy nhiên, theo khoản c Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn
áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
đối với trường hợp thiệt hại xảy ra trong tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng
mà những văn bản pháp luật khác vẫn yêu cầu trách nhiệm bồi thường do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại lúc này phải áp dụng
theo các quy định tại các văn bản pháp luật đó.
12
Lỗi không phải điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra. Chủ sở hữu, người được chuyển giao quyền chiếm hữu,
sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường ngay cả khi không có lỗi. Tuy
nhiên, nếu lỗi xuất phát từ phía người bị thiệt hại, thì trách nhiệm bồi thường sẽ
không đặt ra cho chủ sở hữu hay người được chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ theo khoản 3 Điều 623 BLDS 2005. Ví dụ: Xe máy đang tham gia giao
thông thì bất ngờ có người lao vào xe với ý định tự tử thì khi người này bị thương
nặng hay thậm chí tử vong, chủ sở hữu hay người đang trực tiếp điều khiển xe lúc
đó không phải bồi thường.
3.3. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu,
sử dụng trái pháp luật :
Chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ là hành vi chiếm
hữu không có những căn cứ pháp luật quy định tại Điều 183 BLDS 2005 như
chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản thông qua giao dịch dân sự vi phạm
các điều kiện có hiệu lực theo Điều 122 BLDS 2005; nguồn nguy hiểm cao độ có
được do trộm, cướp, hoặc các hành vi chiếm đoạt tài sản khác; Khi nguồn nguy
hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật, khoản 4 Điều 623 BLDS 2005
và khoản d Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy
định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quy định thành hai
trường hợp sau :
Thứ nhất, “ Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao
độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nếu chủ sở hữu,
người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp không có lỗi trong việc
để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (đã tuân thủ các
quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo
13
đúng quy định của pháp luật)” Như vậy, nếu nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm
hữu, sử dụng thông qua hành vi trái pháp luật bao gồm trộm, cướp hoặc các hình
thức chiếm đoạt tài sản khác ví dụ như xe máy có được do trộm cắp, tàu thuyền
cướp được thì khi thiệt hại xảy ra do nguồn nguy hiểm cao độ thì người chiếm
hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ bất hợp pháp phải chịu trách nhiệm bồi
thường.
Thứ hai, “ Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm
hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.” Quy định này
được hiểu là nếu chủ sở hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ đã không thực hiện
đúng các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ dẫn đến việc nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật.
Trong trường hợp này, thiệt hại xảy ra ngoài nguyên nhân chính là do hoạt động
nội tại của nguồn nguy hiểm cao độ còn có lỗi của chủ sở hữu cũng như có dấu
hiệu chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật. Do đó, việc xác
định trách nhiệm pháp lý liên đới được phát sinh trong trường hợp này là chính
xác, hợp lý.
II. Thực tiễn áp dụng các qui định của pháp luật về bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
1. Vụ việc thứ nhất
Nguyễn Văn Nam là người lái xe ôtô 3 tấn chuyên chở hàng đi giao cho các đại
lí hàng tạp hóa ở thành phố Vinh, một hôm anh Nam đang đi trên đường Quang
Trung với tốc độ 60km/h, bỗng nhiên trên đường giao thông có một người đang
chạy ra từ 1 nhà dân thẳng ra đường ngay trước mũi xe của anh và đứng im
không hề có ý định né tránh chiếc xe của anh với mục đích tự tử, anh Nam thấy
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét