1.2.4 Sự thay đổi về hình thức đầu tư và các dự án mới.30
Chương 2. TÌNH HÌNH THU HÚT FDI Ở CHÂU Á – THỰC TRẠNG,
NHỮNG RỦI RO VÀ LỢI ÍCH CHẤU Á GẶP PHẢI.
2.1. Châu Á – tình hình và xu hướng thu hút FDI.36
2.1.1 Nhận xét chung về tình hình các nước Châu Á hiện nay.35
2.1.2. Tình hình FDI của khu vực Châu Á.46
2.2. Lợi ích và rủi ro của MNCs đầu tư bằng vốn FDI.50
2.2.1.Lợi ích:50
2.2.2. Rủi ro.53
Chương 3. TÌNH HÌNH FDI TẠI TRUNG QUỐC, THỰC TRẠNG VÀ
NHỮNG CHÍNH SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ TRUNG QUỐC.
3.1. Các yếu tố tác động đến việc thu hút FDI ở Trung Quốc.57
3.1.1.Vốn.57
3.1.2.Môi trường cạnh tranh.58
3.1.3.Môi trường quản lý-chính sách.58
3.1.4.Sự ổn định.58
3.1.5.Chính sách mở cửa, giao thương quốc tế.59
3.2.Những số liệu cụ thể về FDI ở Trung Quốc.59
3.2.Những hướng dẫn mới của Trung Quốc về đầu tư trực tiếp nước ngoài.62
3.3.Một cái nhìn khái quát về chính sách ưu đãi thuế của Trung Quốc.66
3.4.Định hướng thị trường – yếu tố chủ đạo đến thu hút FDI của Trung Quốc.72
3.5.Định hướng xuất khẩu: đóng vai trò quyết định trong thu hút FDI ở Trung Quốc.
77
3.6.Khuyến nghị cho chính sách của Chính phủ Trung Quốc.79
3.6.1.Cải cách pháp luật đầu tư đang chậm trễ.81
3.6.2.Khuyến nghị trong quản lý.82
3.7.1. Nhượng quyền thương mại.84
3.7.2.Quá trình phê duyệt.85
3.7.3. Các vấn đề về luật cạnh tranh.86
5
3.8.4.Phát triển một chiến lược Sở hữu trí tuệ cho Trung Quốc.86
3.7.5.Xây dựng thương hiệu.87
Chương 4: VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
4.1. Một vài đặc điểm của Việt Nam.89
4.1. Vài nét về phát triển FDI tại Việt Nam : các giai đoạn đầu tư.89
4.1.1. Giai đoạn 1(1987-1989): sau thời gian đầu tư thăm dò.89
4.1.2. Giai đoạn 2 (từ 1990- 1996) : gia tăng mạnh mẽ.89
4.1.3. Giai đoạn 3 (1997- 2002): có phần chậm lại.90
4.1.4. Giai đoạn 4 (2003 đến nay) : được cải thiện và tăng lên cả chất lượng.92
4. 2.Vài nét sơ lược về VN.93
4.2.1. Chính trị Việt Nam.93
4.2.2.Địa lý kinh tế.94
4.2.3.Dân số.94
4.2.4. Cơ cấu ngành.94
4.2.5.Tổng quan kinh tế Việt Nam.94
4.3. Lợi ích và rủi ro của MNC khi đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.95
4.3.1. Từ góc độ của MNCs.95
4.3.1.1. Lợi thế:95
4.3.1.2. Bất lợi.97
4.3.2. Từ phía nước sở tại ( Việt Nam).98
4.3.2.1. Lợi ích.98
4.3.2.2. Rủi ro.103
4.4.Thực trạng dòng vốn FDI tại VN những năm vừa qua.104
4.4.1. Xu hướng đầu tư của MNCs đang dần thay đổi.104
4.4.1.1. Theo ngành.104
4.4.1.2. Theo khu vực :111
4.4.1.3. Theo quốc gia đầu tư :113
4.4.1.4. Theo hình thức đầu tư.117
4.4.2. Thực trạng đăng ký vốn và giải ngân.118
6
4.5.So sánh với Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho việc thu hút FDI của Việt
Nam 123
4.5.1. Trung Quốc và Việt Nam123
4.5.2. Bài học thu hút đầu tư.
Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo.
CHƯƠNG 1. ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRÊN THẾ
GIỚI.
1.1. Lợi ích và rủi ro của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.1.1. Lợi ích :
a) Tăng năng suất: Đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp tăng năng suất, khi một
công ty có nỗ lực muốn bán sản phẩm ban đầu của mình tại các thị trường mới có thể
làm tăng mức thu nhập cổ phần của mình do tăng năng suất. Điều này làm giảm chi
phí bình quân từng đơn vị sản phẩm. Công ty càng sử dụng nhiều máy móc thiết bị
thì khả năng này càng có điều kiện thuận lợi để thực hiện.
b) Tiếp cận thị trường mới và giảm xung đột thương mại: Đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài là một biện pháp để tránh xung đột thương mại song phương.
Ví dụ, Nhật Bản hay bị Mỹ và các nước Tây Âu phàn nàn do Nhật Bản có thặng dư
thương mại còn các nước kia bị thâm hụt thương mại trong quan hệ song phương.
Đối phó, Nhật Bản đã tăng cường đầu tư trực tiếp vào các thị trường đó. Họ sản xuất
và bán ô tô, máy tính ngay tại Mỹ và châu Âu, để giảm xuất khẩu các sản phẩm này
7
từ Nhật Bản sang. Họ còn đầu tư trực tiếp vào các nước thứ ba, và từ đó xuất khẩu
sang thị trường Bắc Mỹ và châu Âu.
• Sử dụng yếu tố nước ngoài trong sản xuất: Nguồn lao động, nguồn tài nguyên. Các
chi phí sử dụng đất đai và lao động có thể khác biệt rất xa giữa các quốc gia. Các
công ty đa quốc gia thường cố gắng thiết lập việc sản xuất tại địa điểm có giá lao
động và đất đai rẻ. Do thị trường không hoàn hảo ở một số quốc gia chẳng hạn như
do thông tin không hoàn hảo, các chi phí giao dịch, di dời dân cư, các rào cản trong
việc thâm nhập vào một ngành công nghiệp… làm cho chi phí lao động không nhất
thiết tương đương giữa các thị trường. Các công ty đa quốc gia thực hiện việc nghiên
cứu thị trường để xác dịnh xem họ có thể thu được lợi nhuận không từ các chi phí rẻ
hơn khi sản xuất ở những thị trường đó.
Sử dụng nguyên vật liệu nước ngoài trong sản xất: Do các chi phí vận chuyển,
một công ty cố gắng tránh nhập khẩu nguyên vật liệu từ một đất nước khác, đặc biệt
là khi công ty dự tính sẽ bán thành phẩm ngược lại cho người tiêu dùng tại nước đó,
một giải pháp khả thi hơn là phát triển việc sản xuất sản phẩm tại một nước mà nuyên
vật liệu có sẵn. Dù cho sản phẩm sản phẩm sản xuất ra sẽ được bán ở một nơi nào
khác, quyết định nhập khẩu nguyên vật liệu sẽ không phù hợp.
Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên: Để có nguồn nguyên liệu thô, nhiều
công ty đa quốc gia tìm cách đầu tư vào những nước có nguồn tài nguyên phong phú.
Làn sóng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài lớn đầu tiên của Nhật Bản vào thập niên 1950
là vì mục đích này. FDI của Trung Quốc hiện nay cũng có mục đích tương tự.
• Khai thác chuyên gia và công nghệ: Sử dụng được công nghệ nước ngoài, các công ty
thiết lập ngày càng nhiều các nhà máy ở nước ngoài hay mua lại các nhà máy hiện
hữu của nước ngoài để học hỏi thêm về công nghệ của các quốc gia khác. Công nghệ
này sau đó được sử dụng để cải tiến quy trình sản xuất tại các nhà máy của các công
ty con trên khắp thế giới. Không phải FDI chỉ đi theo hướng từ nước phát triển hơn
sang nước kém phát triển hơn. Chiều ngược lại thậm chí còn mạnh mẽ hơn nữa. Nhật
Bản là nước tích cực đầu tư trực tiếp vào Mỹ để khai thác đội ngũ chuyên gia ở Mỹ.
8
Ví dụ, các công ty ô tô của Nhật Bản đã mở các bộ phận thiết kế xe ở Mỹ để sử dụng
các chuyên gia người Mỹ. Các công ty máy tính của Nhật Bản cũng vậy. Không chỉ
Nhật Bản đầu tư vào Mỹ, các nước công nghiệp phát triển khác cũng có chính sách
tương tự. Trung Quốc gần đây đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, trong đó có
đầu tư vào Mỹ. Việc công ty đa quốc gia quốc tịch Trung Quốc là Lenovo mua bộ
phận sản xuất máy tính xách tay của công ty đa quốc gia mang quốc tịch Mỹ là IBM
được xem là một chiến lược để Lenovo tiếp cận công nghệ sản xuất máy tính ưu việt
của IBM. Hay việc TCL (Trung Quốc) trong sáp nhập với Thompson (Pháp) thành
TCL-Thompson Electroincs, việc National Offshore Oil Corporation (Trung Quốc)
trong ngành khai thác dầu lửa mua lại Unocal (Mỹ) cũng với chiến lược như vậy.
• Thị trường tiêu thụ: Đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo điều kiện thu hút nguồn nhu cầu
mới, các công ty đa quốc gia thường đạt tới một giai đoạn mà sự phát triển bị hạn chế
tại xứ sở của họ. Điều này có thể do sự cạnh tranh mãnh liệt đối với những sản phẩm
mà họ bán ra trên thị trường. Ngay cả khi có rất ít cạnh tranh, thị phần của họ có thể
đạt đến đỉnh cao hay các nhu cầu chung cho các sản phẩm có thể bị giảm sút do
những thay đổi trong thị hiếu người tiêu dùng. Như vậy giải pháp khả thi là cân nhắc
việc lựa chọn một thị trường nước ngoài nơi có những nhu cầu tiềm ẩn cho các sản
phẩm ấy. Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng giúp các MNC thâm nhập vào những thị
trường nơi có thể đạt được lợi nhuận cao, các MNC có thể thâm nhập vào những thị
trường khác, nơi họ có thể đạt được lợi nhuận cao. Nếu những công ty khác trong
cùng một lĩnh vực công nghệ đã chứng minh được rằng những nguồn thu nhập cao có
thể thực hiện được ở những thị trường khác thì một công ty đa quốc gia nào đó cũng
có thể quyết định thâm nhập vào thị trường đó. Họ có thể đưa ra kế hoạch giảm giá
bán khá cao đối với sản phẩm đang phổ biến trên thị trường. Một trở ngại phổ biến
cho chiến lược này là những người kinh doanh đã có mặt trước đó trong thị trường có
thể tìm mọi cách không cho đối thủ mới chiếm thị phần của mình, thí dụ bằng cách
giảm giá tương đương hoặc thấp hơn mức giảm giá của đối thủ mới khi họ vừa thâm
nhập vào thị trường này.
9
c) Phát huy lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia :
Công ty đa quốc gia có những lợi thế đặc thù (chẳng hạn năng lực cơ bản) cho phép
công ty vượt qua những trở ngại về chi phí ở nước ngoài nên họ sẵn sàng đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài. Khi chọn địa điểm đầu tư, những công ty đa quốc gia sẽ chọn nơi
nào có các điều kiện (lao động, đất đai,chính trị) cho phép họ phát huy các lợi thế đặc
thù nói trên. Những công ty đa quốc gia thường có lợi thế lớn về vốn và công nghệ
đầu tư ra các nước sẵn có nguồn nguyên liệu, giá nhân công rẻ và thường là thị
trường tiêu thụ tiềm năng
• Công nghệ hiện đại, nguồn vốn lớno ty có thể trở nên quốc tế hóa nếu như họ sở hữu
các tiềm lực hay kỹ năng mà các đối thủ cạnh tranh không bao giờ có. Trên thực tế thị
trường thường không bao giờ hoàn hảo, kết quả là một số quốc gia có thể chiếm hữu
một số thuận lợi hơn một số quốc gia khác đối với những thị trường khác nhau. Ngay
cả trong phạm vi một quốc gia nào đó, một số công ty có thể chiếm hữu một số thuận
lợi hơn các công ty khác. Điển hình trong lĩnh vực công nghệ, nếu một công ty nào
đó sỡ hữu công nghệ tiên tiến và đã khai thác được sự thuận lợi này một cách thành
công ở thị trường trong nước, công ty đó cũng có khả năng khai thác nó trên thị
trường quốc tế. Công nghệ không hề bị hạn chế trong việc phát triển sản phẩm mới.
Công nghệ còn có thể đưa ra một quy trình tài chính, tiếp thị và sản xuất hiệu quả
hơn. Trong một chừng mực nào đó, công ty sẽ được thuận lợi hơn các đối thủ và có
thể thu được lợi nhuận từ việc trở nên quốc tế hóa.
d) Đa dạng hóa ở tầm cỡ quốc tế:
• Đa dạng hóa quá trình sản xuất: Một trong những lý do tại sao các công ty tiến hành
kinh doanh ở tầm cỡ quốc tế là sự đa dạng hóa quá trình sản xuất. Nếu tất cả các tài
sản của một công ty được tổ chức nhằm điều tiết việc kinh doanh một sản phẩm nào
đó trong một quốc gia, nguồn tiền mặt của một công ty rất có khả năng trở nên bất ổn
định, đó là kết quả của những tình thế thay đổi trongphamj vi công nghệ của công ty
hay trong phạm vi nền kinh tế. Công ty có thể giảm bớt sự thay đổi của nguồn tiền
mặt bằng cách đa dạng hóa nguyên liệu sản xuất.
10
Nhu cầu cho tất cả các loại sản phẩm được sản xuất trong cùng một nước có phần nào
chịu ảnh hưởng của nền kinh tế nước đó. Công ty có thể giảm bớt rủi ro bằng cách
chào bán các nguyên liệu và sản phẩm giữa các quốc gia khác nhau. Với việc đa dạng
hóa kinh doanh và cả trong sản xuất ở tầm cỡ quốc tế, công ty có thể giữ cho nguồn
tiền mặt thực của mình ít bị chao đảo. Mức độ của sự đa dạng hóa quốc tế có thể làm
ổn định nguồn tiền mặt của các công ty đa quốc gia lại tùy thuộc vào tiềm năng của
thị trường nước ngoài.
• Phản ứng với giá trị thay đổi của ngoại tệ: Khi một công ty cho rằng ngoại tệ
của một quốc gia nào đó bị giảm giá, công ty đó có thể tính đến khả năng đầu tư trực
tiếp vào đất nước đó. Do sự giảm giá ngoại tệ, mức phí tổn ban đầu có thể khá thấp.
Nếu đồng ngoại tệ đó mạnh lên theo thời gan, thu nhập được chuyển về công ty mẹ sẽ
tăng lên.
Thí dụ vào những năm 1980, các công ty Nhật tăng cường việc đầu tư trực tiếp vào
Mỹ, Đài Loan, Hàn Quốc và vùng Đông Nam Á, nguyên do một phần do đồng yên
tăng mạnh và vào thời điểm đó mức phí tổn ban đầu tương đối thấp khi thiết lập các
công ty con. Một nguyên nhân khác dẫn đến việc đầu tư trực tiếp là bù đắp nhu cầu
thay đang thay đổi cho việc xuất khẩu của công ty do những dao động về tỷ giá hối
đoái.
• Phản ứng với các kiềm hãm thương mại: Trong một số trường hợp, một công ty
đa quốc gia sử dụng việc đầu tư trực tiếp như là một chiến lược phòng ngự hơn là tấn
công.
Thí dụ như nhà máy sản xuất ô tô của Nhật sẽ thành lập một chi nhánh tại Mỹ do tiên
đoán rằng việc xuất khẩu ô tô sang Mỹ sẽ chịu ảnh hưởng bởi những hạn chế thương
mại rất nghiên ngặt. Các có thể giới hạn hoặc ngăn cản việc xuất khẩu ô ô tại Nhật
sang Mỹ và đầu tư trực tiếp vào một công ty con của Nhật tại Mỹ được xem như một
chính sách phòng ngự tốt.
e) Mang lại những thuận lợi về mặt chính trị: Một số công ty đa quốc gia đóng tại
những nước có nền chính trị không ổn định đang cố gắng phát triển sang những nước
11
ổn định hơn. Mặt khác khi hoạt động của một công ty đa quốc gia ngày càng mở rộng
và đạt được những thành tựu nhất định về kinh tế đó là cơ sở để có được những thuận
lợi về mặt chính trị.
1.1.2. Rủi ro :
a) Rủi ro về chính trị, văn hóa, xã hội :
Chính sách, thể chế của các quốc gia:
Hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư của một số nền kinh tế đang trong quá trình
sửa đổi, hoàn thiện nên có nhiều thay đổi, không thống nhất, thiếu minh bạch và khó
tiếp cận. Tại một số nền kinh tế có sự thiếu nhất quán trong áp dụng chính sách, đặc
biệt là các quy định do địa phương đặt ra và áp dụng ngoài các chính sách của nhà
nước
Ví dụ: chính sách ưu đãi miễn thuế thu nhập doanh nghiệp của Lào được áp dụng
trên toàn quốc nhưng địa phương vẫn thu thêm thuế thu nhập.
Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tại một số nền kinh tế cũng như các thủ tục
triển khai thực hiện dự án đầu tư (đất đai, phê duyệt thiết kế.v.v.) khá phức tạp, kéo
dài thời gian, tốn kém về chi phí cho doanh nghiệp, thủ tục thông quan phức tạp (ví
dụ tại LB Nga, Lào).
Giới hạn việc chuyển giao:
Công ty địa phương của nước chủ nhà có thể sẽ cố gắng xuất khẩu hàng hóa sang một
quốc gia khác , làm giảm doanh thu của bên chuyển nhượng.
Rất khó kiển tra chất lượng trong quy trình sản xuất của công ty địa phương.
Những bí quyết công nghệ cung cấp cho công ty địa phương có thể bị rò rỉ sang công
ty đối thủ trong quốc gia đó.
Tình hình chính trị:
12
Các rủi ro về chính trị phát sinh từ những rối loạn chính trị như bạo động, biểu tình,
khủng bố, nội chiến và chiến tranh giữa các quốc gia. Hậu quả của sự rối loạn gồm có
sự sụp đổ nền kinh tế, và việc cấm đoán chuyển tiền về nước.
Ví dụ như nhiều công ty Mỹ đã mất trắng những cơ sở đầu tư trị giá hàng trăm
triệu USD sau cuộc chiến tranh Irac. Việc cấm chuyển tiền lãi về nước là điều không
phải hiếm khi xảy ra ngay tại các nước phương Tây khác.
Văn hóa, xã hội :
Hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài đều lo ngại về hệ thống vận tải nghèo nàn của
nước nhận đầu tư. Đó là một trở ngại lớn trong kinh doanh. Hơn thế nữa là chi phí
vận tải cao dù chất lượng kém.
Sự khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa cũng là một trong những cản trở hoạt động đầu tư
ra nước ngoài.
Ví dụ: Sự có mặt của Hoa Kỳ tại Saudi Arabia không phải là quân đội mà là các
công ty khoan dầu trên căn bản hợp tác hai bên cùng có lợi. Tuy nhiên, người Hồi
Giáo Ả Rập đã nhìn người Mỹ qua lăng kính khắt khe của Hồi Giáo. Lối sống tự do
phóng túng của người Mỹ đã làm cho những người Hồi Giáo bảo thủ khó chịu vì nó
đi ngược lại với lối sống khép kín của xã hội đạo Hồi.
b) Những rủi ro về kinh tế:
Thị trường còn sơ khi:
Nhiều quốc gia thị trường hàng hoá dịch vụ còn hạn hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu
cực (hàng giả, hàng lậu, hàng nhái nhãn hiệu làm rối loạn thị trường).
Thị trường hàng hoá sức lao động còn mới mẻ. Nét nổi bật của thị trường này là sức
cung về lao động lành nghề nhỏ hơn rất nhiều so với mức cầu. Lực lượng lao động tại
chỗ rất hạn chế, trình độ chuyên môn thấp, tính kỷ luật và tính chuyên cần không cao,
13
rất khó đáp ứng được nhu cầu về lao động của nhà đầu tư cả về số lượng lẫn chất
lượng (ví dụ tại Lào).
Thị trường tiền tệ và thị trường vốn vẫn còn nhiều trắc trở. Rất nhiều doanh nghiệp,
đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân rất thiếu vốn nhưng không vay được vì vướng về thủ
tục. Trong khi nhiều ngân hàng thương mại lại không thể cho vay nên để dư nợ quá
hạn đến mức báo động. Thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động nhưng vẫn còn
thiếu “hàng hoá” để mua bán và chưa được kiểm soát chặt chẽ.
Biến động về tiền tệ:
Những rủi ro về kinh tế chính là những rủi ro đi kèm với những biến động về tiền tệ.
Sự biến động chính trị đồng đô la đối với tiền tệ các nước khác khiến cho việc lập kế
hoạch có tính chất quốc tế trở nên khó khăn. Về tỷ giá hối đoái, một cuộc đầu tư có
vẻ tốt lúc ban đầu có thể trở nên xấu vài tháng sau đó chỉ vì tỷ giá hối đoái thay đối.
Đô la tăng giá có thể làm hạ thấp giá trị những tài sản và thu nhập ở nước ngoài một
cách thê thảm.
Ví dụ nhu trường hợp của Mexico từ năm 1976 đến năm 1987, giá trị của đồng
peso giảm từ 22 peso/đô la xuống còn 1500 peso/ đô la. Kết quả là các công ty đa
quốc gia hoạt động tại Mexico phải cay đăng nhận biết rằng giá trị bằng đô la bỏ ra
để đầu tư gần như tan thành mây khói.
Các nhà quản trị chiến lược cần phải đánh giá những rủi ro về tiền tệ trước khi quyết
định có nên đầu tư ở nước ngoài hay không.
c) Vấn đề về môi trường:
Các quy định về môi trường ngày càng được thắt chặt. Từ những qui định về khí thải,
nước thải đến các qui định về vệ sinh an toàn thực phẩm hay các tiêu chuẩn về chất
lượng sản phẩm. Những qui định này có thể làm nản lòng các nhà đầu tư do những
thủ tục rườm rà, chi phí cao,…
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét