Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 5
Phương pháp thu thập và phân tích: Chuyên đề sử dụng các phương pháp
thống kê, phỏng vấn, phân tích thông tin kinh tế theo chỉ tiêu, phương pháp so sánh,
tổng hợp số liệu.
Kết cấu Chuyên đề
Chuyên đề gồm ba chương:
Chương 1. Lý luận chung về hoạt động thanh toán quốc tế và thu tiền hàng
xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ của Ngân hàng thương mại.
Chương 2. Thực trạng hoạt động thu tiền hàng xuất khẩu theo phương thức
tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam.
Chương 3. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động thu
tiền hàng xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch Ngân
hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam.
Lê Quỳnh Anh – KDQT 47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 6
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ
VÀ THU TIỀN HÀNG XUẤT KHẨU THEO PHƯƠNG THỨC TÍN
DỤNG CHỨNG TỪ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Ngân hàng thương mại và vai trò đối với nền kinh tế
Trong mô hình hệ thống ngân hàng (NH) hai cấp ở các nền kinh tế vận hành
theo cơ chế thị trường: Ngân hàng thương mại (NHTM) _ NH cấp II _ là một doanh
nghiệp được tổ chức, thành lập và hoạt động dưới sự kiểm soát, quản lý, điều chỉnh
của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) _ NH cấp I, thực hiện kinh doanh trên lĩnh vực
tiền tệ với hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng (với
trách nhiệm hoàn trả), sử dụng tiền gửi đó để cho vay, đầu tư và thực hiện các
nghiệp vụ thanh toán và các nghiệp vụ trung gian tài chính khác nhằm thu lợi nhuận.
NHTM là tổ chức tài chính trung gian có vị trí quan trọng nhất trong nền
kinh tế. Mặc dù nó không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và lưu thông
hàng hoá như các doanh nghiệp thông thường khác nhưng lại tạo điều kiện thuận lợi
cho quá trình đó được diễn ra một cách trôi chảy, liên tục, thông qua việc điều phối
lượng tiền trong nền kinh tế (từ nhóm “thặng dư” vốn sang nhóm “thâm hụt” vốn),
đồng thời làm gia tăng khả năng thanh toán không dùng tiền mặt và giúp giảm chi
phí lưu thông. NHTM góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc
thực hiện những vai trò cơ bản của mình đối với nền kinh tế là:
- Vai trò trung gian: Chuyển các khoản tiết kiệm, chủ yếu từ hộ gia đình,
thành các khoản tín dụng cho các tổ chức kinh doanh và các thành phần khác
để đầu tư vào nhà cửa, thiết bị và các tài sản khác.
Lê Quỳnh Anh – KDQT 47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 7
- Vai trò thanh toán: Thay mặt khách hàng (cá nhân và doanh nghiệp) thực
hiện thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ (bằng cách phát hành các
phương tiện thanh toán, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các
quỹ và phân phối tiền).
- Vai trò người bảo lãnh: Cam kết trả nợ cho khách hàng khi họ mất khả năng
thanh toán (như phát hành thư tín dụng).
- Vai trò đại lý: Thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản của họ, phát
hành hoặc chuộc lại chứng khoán.
- Vai trò thực hiện chính sách: Thực hiện các chính sách kinh tế của Chính
phủ, góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã
hội.
1.1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế hiện đại thì hoạt hoạt động
của NHTM theo đó cũng ngày càng phong phú và đa dạng hơn, tuy nhiên, bất kỳ
NH nào cũng phải thực hiện đầy đủ ba nhóm hoạt động chính là: Các hoạt động huy
động vốn, các hoạt động sử dụng vốn và các hoạt động trung gian thanh toán. Ngoài
ra, để đáp ứng nhu cầu ngày càng phức tạp của khách hàng, các NH hiện còn mở
rộng sang nhiều hoạt động và dịch vụ khác nữa.
Hoạt động huy động vốn: NH muốn kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ thì
phải có lượng vốn rất lớn. Bên cạnh số vốn chủ sở hữu _ vốn pháp định được
trang bị khi mới thành lập thì lượng vốn chủ yếu đáp ứng nhu cầu hoạt động
của NH lại là vốn huy động từ nền kinh tế thông qua các nguồn sau:
• Nhận tiền gửi (tiền gửi giao dịch và tiền gửi tiết kiệm): Đây là hoạt
động cơ bản của NHTM mà các tổ chức tài chính phi NH không được
thực hiện. Lượng vốn từ tiền gửi này sẽ là nguồn chủ yếu NH sử dụng để
phục vụ hoạt động cho vay và đầu tư. Việc huy động này không những
tạo ra nguồn vốn kinh doanh cho NH mà còn đem lại cho cá nhân, hộ gia
Lê Quỳnh Anh – KDQT 47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 8
đình hay các doanh nghiệp gửi tiền một khoản thu nhập từ lãi tiền gửi,
bên cạnh việc cung cấp cho họ một địa chỉ giữ tiền an toàn.
• Phát hành giấy tờ có giá: Các giấy tờ này có thể là các trái phiếu NH,
các chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn…Thông thường NH chỉ phát hành
trái phiếu, tín phiếu để phục vụ cho một mục đích sử dụng nhất định, như
đầu tư cho một dự án hay một công trình.
• Vay vốn từ các tổ chức tín dụng khác: Khi cần, NHTM có thể đi vay
các tổ chức tín dụng khác qua thị trường liên NH hay bằng hình thức vay
thương mại để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của mình.
• Vay vốn của NHNN: Cũng giống như trường hợp đi vay các tổ chức tín
dụng khác, NHTM cũng chỉ vay NHNN để đáp ứng nhu cầu thanh khoản,
giải quyết những vấn đề cấp bách nảy sinh trong hoạt động NH chứ
không dùng tiền đó để cho vay. Việc vay vốn này được thực hiện dưới
hình thức chiết khấu hay tái chiết khấu thương phiếu, với lãi suất cao hay
thấp phụ thuộc vào chính sách tiền tệ thắt chặt hay nới lỏng mà NHNN
đang áp dụng.
Hoạt động sử dụng vốn: Huy động vốn là điều cần thiết để bắt đầu hoạt
động kinh doanh của NHTM song sử dụng vốn huy động sao cho có hiệu
quả, mang lại lợi nhuận cao nhất cho NH mới là điều quan trọng. NH có các
hình thức sử dụng vốn sau:
• Hoạt động ngân quỹ: Đây là hoạt động liên quan đến chi trả hàng ngày
cho khách hàng từ một trong các nguồn là tiền tại quỹ (khoản tiền nhất
định NH phải giữ lại để đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên), tiền
gửi tại các NHTM khác (để thực hiện các nghiệp vụ thanh toán, chuyển
tiền cho khách hàng), tiền gửi ở NHNN (là tiền gửi dự trữ bắt buộc hay
tiền gửi thanh toán) và cuối cùng là tiền mặt trong quá trình thu. Các
khoản này kém sinh lời nhất, thậm chí không sinh lời vì chỉ nhằm đáp
ứng nhu cầu thanh khoản mà thôi.
Lê Quỳnh Anh – KDQT 47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 9
• Hoạt động tín dụng: Đây là một nghiệp vụ quan trọng của NHTM bởi
hầu hết vốn của NH đều được sử dụng cho hoạt động tín dụng. Bao gồm
các hình thức sau:
- Cho vay: Cho vay là hoạt động chính, quyết định sự tồn tại và phát
triển của NHTM. Các NH luôn luôn tìm kiếm cơ hội để thực hiện cho
vay thông qua các hình thức: (1) Cho vay thương mại _ hoạt động cho
vay chủ yếu của các NHTM _ NH cho vay trực tiếp đối với khách
hàng là các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế để giúp họ có vốn để kinh
doanh, mua hàng dự trữ và đầu tư mở rộng sản xuất; (2) Cho vay tiêu
dùng: Trong giai đoạn đầu, vì cho rằng rủi ro đối với hoạt động cho
vay các cá nhân và hộ gia đình là rất cao nên các NHTM không tích
cực thực hiện hoạt động này. Ngày nay, sự gia tăng thu nhập của
người tiêu dùng và sự cạnh tranh gay gắt trong cho vay đã hướng các
NHTM tới người tiêu dùng như một đối tượng khách hàng tiềm năng;
(3) Tài trợ cho dự án: Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn
hạn, các NH ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ trung và
dài hạn cho việc xây dựng các nhà máy mới, đặc biệt trong các ngành
công nghệ cao.
- Chiết khấu chứng từ có giá: Thực chất đây là một nguồn tín dụng
ngắn hạn, trong đó NH nhận các chứng từ có giá chưa đến hạn thanh
toán của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và trả cho họ một số tiền
nhất định bằng mệnh giá của chứng từ đó sau khi đã trừ đi lãi suất và
phí chiết khấu. Đến hạn của chứng từ có giá đó, NH sẽ thu nợ ở người
chấp hành lệnh nếu là hối phiếu và ở người phát hành nếu là kỳ phiếu.
Đây là một hoạt động mang lợi lợi nhuận cho NH, có độ rủi ro thấp
đồng thời lại đảm bảo khả năng thanh khoản cao cho các NHTM vì có
thể thực hiện nghiệp vụ tái chiết khấu với NHNN trong những tình
huống cần thiết.
Lê Quỳnh Anh – KDQT 47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 10
- Tín dụng ứng trước: Đây là một thể thức cho vay được thực hiện trên
cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó các NHTM chấp nhận cho vay và
sử dụng một mức cho vay trong một thời hạn nhất định theo từng
phần hoặc toàn bộ giá trị hợp đồng. Thông thường các NH thực hiện
việc cho vay ứng trước có bảo đảm căn cứ vào số lượng hàng hoá
xuất khẩu mà khách hàng chưa thu được tiền. Nghiệp vụ này gần
giống như nghiệp vụ chiết khấu chứng từ có giá, NH sẽ cấp tín dụng
cho khách hàng một số tiền bằng giá trị ghi trên hối phiếu sau khi đã
trừ lãi suất ứng trước và phí. Song hoạt động này có nhiều rủi ro hơn
chiết khấu.
- Bảo lãnh: Là cam kết của NH dưới hình thức thư bảo lãnh về việc
thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của mình khi họ
không thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam kết với một bên thứ ba.
Bảo lãnh được xem là một hình thức tài trợ của NH cho khách hàng,
qua đó họ có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hoá hoặc thực
hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi. Có nhiều
hình thức bảo lãnh như bảo lãnh để tham gia dự thầu, bảo lãnh thực
hiện hợp đồng, bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh thanh toán,
bảo lãnh hoàn trả vốn vay…Một trong những hình thức bảo lãnh của
NHTM trong hoạt động thanh toán quốc tế (TTQT) mà cụ thể là trong
thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ là NH sẽ đứng ra bảo
lãnh thư tín dụng chứng từ, trong trường hợp Ngân hàng phát hành
(NHPH) không có khả năng trả tiền khi đến hạn thanh toán thì Ngân
hàng bảo lãnh (Ngân hàng xác nhận _ NHXN) sẽ thanh toán số tiền
của thư tín dụng cho người xuất khẩu hoặc các NH có liên quan.
- Cho thuê tài sản (thuê – mua): Đây là một hình thức tín dụng trung
và dài hạn, trong đó, NHTM mua tài sản theo yêu cầu của khách hàng
và cho họ thuê với thời hạn sao cho NH phải thu gần đủ (hoặc thu đủ)
Lê Quỳnh Anh – KDQT 47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 11
giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi. Khách hàng có trách nhiệm thanh
toán tiền thuê trong suốt thời gian thoả thuận và khi hết hạn thuê được
quyền mua lại tài sản thuê hoặc thuê tiếp theo các điều kiện đã ghi
trong hợp đồng. Hình thức này đáp ứng nhanh chóng nhu cầu mua
sắm tài sản có giá trị lớn của khách hàng đồng thời tạo ra một loại
hình kinh doanh mới thu được lợi nhuận cho NH. Các NHTM thường
lập một công ty con để chuyên trách thực hiện hoạt động này.
• Hoạt động đầu tư: Trong trường hợp cho vay không hết, NH có thể chủ
động tìm nơi đầu tư để thu lợi nhuận đồng thời giúp phân tán rủi ro. NH
có thể đầu tư trực tiếp vào kinh doanh như đầu tư xây dựng dự án hoặc
công trình. Ngoài ra NH cũng có thể đầu tư gián tiếp thông qua thị trường
chứng khoán bằng cách mua tín phiếu, trái phiếu hay cổ phiếu của các
công ty.
Hoạt động trung gian thanh toán: Đây là nghiệp vụ đặc trưng của NHTM
so với các trung gian tài chính khác. Khi nhận tiền gửi của khách hàng, NH
không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ.
Thanh toán qua NH đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là
người gửi tiền không cần phải đến NH để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả
cho khách, khách mang giấy này đến NH sẽ được nhận tiền. Bên cạnh việc
lấy tiền trên tài khoản của người mua, chuyển sang tài khoản của người bán
để thanh toán tiền hàng hoá và dịch vụ cho khách hàng, NH còn cung cấp
cho họ một hệ thống các phương tiện thanh toán thuận lợi như séc, uỷ nhiệm
thu – chi, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… giúp cho khách hàng thuận tiện hơn
rất nhiều trong thanh toán, tiết kiệm được thời gian và chi phí, đồng thời đảm
bảo việc thanh toán được an toàn.
Ngoài việc làm trung gian thanh toán trong phạm vi quốc gia, việc các
NHTM thực hiện hoạt động thanh toán giữa hai chủ thể ở hai quốc gia khác nhau
ngày càng phổ biến trong điều kiện nền kinh tế có xu hướng mở cửa hội nhập như
Lê Quỳnh Anh – KDQT 47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 12
hiện nay. Bên cạnh việc hỗ trợ cấp tín dụng cho các doanh nghiệp, hoạt động thanh
toán quốc tế do các NHTM thực hiện có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu, giúp hoạt động thanh toán không những được diễn ra
suôn sẻ, nhanh chóng, thuận tiện mà còn đảm bảo quyền lợi cho các bên, góp phần
mở rộng quan hệ thương mại giữa các nước.
Các hoạt động khác: Bên cạnh những hoạt động cơ bản trên, các NHTM còn
thực hiện những nghiệp vụ khác liên quan tới tài chính, tiền tệ như kinh
doanh ngoại tệ, bảo quản các vật có giá, làm đại lý trong các lĩnh vực liên
quan đến hoạt động NH, cung cấp các dịch vụ tư vấn, môi giới chứng khoán,
bảo hiểm…Danh mục những dịch vụ tài chính mà các NHTM cung cấp đang
ngày càng dài thêm cùng với sự phát triển của nền kinh tế hiện đại và sự gia
tăng những nhu cầu phong phú và đa dạng của khách hàng trong lĩnh vực
này.
• Kinh doanh ngoại tệ: Đây là một trong những dịch vụ NH đầu tiên
được thực hiện. NH sẽ đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại
tiền khác và hưởng phí dịch vụ.
• Bảo quản vật có giá: Các NH thực hiện việc lưu giữ vàng, các giấy tờ
có giá và các tài sản khác cho khách hàng trong két (còn gọi là dịch vụ
cho thuê két) và đổi lại khách hàng phải trả cho NH phí bảo quản.
• Cung cấp các dịch vụ đại lý: Các NH trong quá trình hoạt động không
thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Do đó, nhiều NH
(thường là NH lớn) cung cấp dịch vụ NH đại lý cho các NH khác như
thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm NH đầu mối
trong đồng tài trợ…
• Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn: Do hoạt động trong lĩnh vực tài
chính các NH có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều
cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ NH quản lý tài sản và hoạt động tài
chính hộ. Ngày nay, các dịch vụ uỷ thác của NH phát triển dưới nhiều
Lê Quỳnh Anh – KDQT 47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 13
hình thức như uỷ thác vay hộ, cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu
tư, uỷ thác trong di chúc Các NH cũng sẵn sàng tư vấn về tiết kiệm và
đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh
nghiệp.
• Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: Hiện nay, các
NHTM bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho
khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà
không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài
trường hợp, các NH tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi
giới chứng khoán.
• Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm: Từ nhiều năm nay, các NH đã bán bảo
hiểm tín dụng cho khách hàng, điều đó đảm bảo việc hoàn trả trong
trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động
làm mất khả năng thanh toán.
Tóm lại, các hoạt động của NHTM có quan hệ bổ sung hỗ trợ lẫn nhau.
Trong đó, hoạt động huy động vốn là cơ sở để thực hiện hoạt động sử dụng vốn _
hoạt động sinh lời lớn cho các NHTM. Trên cơ sở hoạt động huy động và sử dụng
vốn, NHTM có thể thực hiện các hoạt động trung gian thanh toán, trong đó NH vừa
nắm giữ, vừa quản lý thu chi từ tài khoản của khách hàng, do vậy hoạt động này vừa
làm tăng nguồn vốn vừa mở rộng việc sử dụng vốn cho NH. Cuối cùng, trên cơ sở
của ba hoạt động cơ bản trên, các NHTM ngày nay đang không ngừng phát triển các
dịch vụ tài chính trong nhiều lĩnh vực mới mẻ như chứng khoán, bảo hiểm, tư vấn…
và cùng với các hoạt động trung gian thanh toán, sự phát triển của chúng đang trở
thành thước đo cho sự phát triển của các NHTM _ những “bách hoá tài chính” _
trong kỷ nguyên kinh tế hiện đại này.
1.1.2. Hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại
Hiện nay, bên cạnh thu nhập từ các nghiệp vụ NH truyền thống thì những
NH hiện đại muốn tăng lợi nhuận đang ngày càng mở rộng hoạt động của mình sang
Lê Quỳnh Anh – KDQT 47A
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 14
các nghiệp vụ ngoại bảng _ những nghiệp vụ mang lại thu nhập hấp dẫn chủ yếu từ
phí nhưng NH không hề phải bỏ vốn _ như kinh doanh ngoại hối, TTQT, bảo
lãnh…Trong các nghiệp vụ ngoại bảng thì TTQT là một nghiệp vụ quan trọng, có
tốc độ tăng trưởng cao, mang lại khoản thu phí ngày một tăng cho NHTM. Thông
qua nghiệp vụ TTQT, có thể chắp nối để phát triển các nghiệp vụ khác như tín dụng,
tài trợ xuất nhập khẩu, mua bán ngoại tệ, bảo lãnh, mở rộng quan hệ tài khoản, quan
hệ NH đại lý…Do đó, nghiệp vụ TTQT có thể được xem là nghiệp vụ ngoại bảng
đặc trưng cho các NHTM ngày nay. Để hiểu thêm về hoạt động này cũng như hiểu
tại sao hoạt động TTQT của các NHTM lại ngày càng phát triển, ta cần nắm được
cơ sở hình thành của hoạt động TTQT cũng như các điều kiện trong TTQT, từ đó
xem xét vai trò thực sự của NHTM đối với TTQT và hoạt động ngoại thương và sau
nữa là tìm hiểu cụ thể về những phương thức TTQT mà các NHTM đang tiến hành.
1.1.2.1. Cơ sở hình thành hoạt động thanh toán quốc tế và các điều kiện
thanh toán quốc tế trong hợp đồng ngoại thương
Cơ sở hình thành hoạt động TTQT
TTQT được hiểu là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả và các yêu cầu về tiền
tệ phát sinh từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức
kinh tế quốc tế, giữa các doanh nghiệp, các cá nhân của các quốc gia khác nhau để
kết thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại bằng các hình
thức chuyển tiền hay bù trừ trên tài khoản tại các NH.
Hay nói cách khác, TTQT là việc phản ánh sự vận động có tính độc lập
tương đối của giá trị trong quá trình chu chuyển tư bản và hàng hoá giữa các quốc
gia khác nhau, do không cân bằng giữa sản xuất và tiêu thụ của các bên tại một
thời điểm nhất định.
Qua những khái niệm TTQT ở trên ta có thể hình dung được phần nào cơ sở
hình thành của hoạt động TTQT. Đó chính là hoạt động ngoại thương! Phạm vi và
năng lực sản xuất của một nước bị hạn chế bởi các yếu tố như địa lý, điều kiện tự
nhiên, trình độ phát triển và các yếu tố khác. Do vậy thật hiếm khi một quốc gia lại
Lê Quỳnh Anh – KDQT 47A
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét