Thứ Sáu, 14 tháng 2, 2014

Triển vọng kinh tế Việt Nam 2012-2013

Là cơ quan được giao chức năng giám sát thị trường tài chính (ngân hàng, chứng
khoán, bảo hiểm), giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện giám sát chung thị trường tài chính,
điều phối chính sách kinh tế vĩ mô, UBGSTCQG tiến hành nghiên cứu, xây dựng Báo cáo
“Triển vọng kinh tế Việt Nam 2012-2013”. Bên cạnh việc đem lại một cái nhìn tổng
quan về tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn vừa qua, Báo cáo tập trung phân tích, ước
tính sản lượng tiềm năng cũng như dự báo triển vọng kinh tế thế giới và mức độ ảnh hưởng
đến kinh tế Việt Nam, trên cơ sở đó khuyến nghị những chính sách, giải pháp nhằm thực
hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, duy trì tăng trưởng hợp lý và đảm
bảo an sinh xã hội. Một số phát hiện quan trọng và những khuyến nghị chính sách chủ yếu
nêu trong báo cáo đã được UBGSTCQG tổng hợp trình Chính phủ.
Đây là lần đầu tiên UBGSTCQG lập báo cáo đánh giá triển vọng kinh tế Việt Nam
và được thực hiện trong điều kiện không ít khó khăn do hạn chế về nguồn dữ liệu, về
nguồn nhân lực, về giới hạn thời gian, do vậy báo cáo không tránh khỏi khiếm khuyết và
chắc chắn còn nhiều hạn chế. UBGSTCQG và Nhóm nghiên cứu hy vọng báo cáo này là
một tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan hoạch định, điều hành chính sách cũng như
các nhà nghiên cứu, các định chế tài chính, các doanh nghiệp quan tâm đến tình hình và
triển vọng kinh tế của Việt Nam.
UBGSTCQG và Nhóm nghiên cứu mong nhận được góp ý của các chuyên gia, các
nhà kinh tế cũng như các cơ quan để UBGSTCQG và Nhóm nghiên cứu có những báo cáo
chất lượng hơn trong tương lai.
Hà Nội, tháng 12 năm 2011
Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính
Quốc gia
TS. Vũ Viết Ngoạn
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CAR Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CPI Chỉ số giá tiêu dùng
CSTK Chính sách tài khóa
CSTT Chính sách tiền tệ
CTCK Công ty chứng khoán
EU Liên minh châu Âu
FDI Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
FII Vốn đầu tư gián tiếp
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GO Tổng sản lượng
GTGD Giá trị giao dịch
HP filter Phương pháp lọc Hodrick-Prescott
ICOR Hệ số tăng vốn - sản lượng
IIP Chỉ số phát triển công nghiệp
IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế
KLGD Khối lượng giao dịch
LC Thư tín dụng
LDR Tỷ lệ cho vay/huy động vốn
LNH Liên ngân hàng
M2 Tổng phương tiện thanh toán
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng trung ương
NSNN Ngân sách nhà nước
REER Tỷ giá thực đa phương
RER Tỷ giá thực song phương
SBV Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
SUT Bảng Nguồn và Sử dụng
TCTD Tổ chức tín dụng
TCTK Tổng cục Thống kê
TFP Năng suất nhân tố tổng hợp
TTCK Thị trường chứng khoán
UBGSTCQG Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia
USD Đồng đôla Mỹ
VA Giá trị gia tăng
VND Việt Nam đồng
WB Ngân hàng Thế giới
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
XNK Xuất nhập khẩu
PHẦN I: TỔNG QUAN KINH TẾ VIỆT NAM
I. Tăng trưởng
1. Tăng trưởng kinh tế
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân thời kỳ 2006-2010 đạt
7,02%/năm. Trong 3 khu vực, khu vực nông nghiệp tăng trung bình 3,5%/năm; khu vực
công nghiệp và khu vực dịch vụ đều tăng trung bình trên 7,5%/năm.
Kết quả trên đã đưa GDP năm 2010 (giá so sánh) cao gấp 2 lần so với năm 2000;
GDP năm 2010 (giá thực tế) đạt trên 101 tỷ USD; GDP bình quân đầu người ước đạt 1.160
USD, vượt mục tiêu kế hoạch và đưa Việt Nam trở thành nước đang phát triển có mức thu
nhập trung bình. Ước tính GDP năm 2011 đạt xấp xỉ 119 tỷ USD và GDP bình quân đầu
người sẽ tăng lên mức xấp xỉ 1.300 USD.
Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2006 đến nay thấp hơn khá nhiều so với
mức bình quân 7,38%/năm giai đoạn 2000-2005 và có xu hướng giảm dần: từ mức bình quân
8,34%/năm giai đoạn 2006-2007 xuống mức 6,14%/năm giai đoạn 2008-2010 và đạt 5,89%
năm 2011.
Hình 1: Tốc độ tăng trưởng GDP 2000-2011
Đơn vị: %
Nguồn: TCTK.
2. Đầu tư và Thương mại
2.1. Đầu tư
2.1.1. Tổng vốn đầu tư và cơ cấu đầu tư
Trong giai đoạn 2006 đến nay, mặc dù nền kinh tế gặp nhiều khó khăn nhưng Việt
Nam tiếp tục huy động được lượng vốn đầu tư lớn, góp phần vào việc duy trì tốc độ tăng
trưởng ở mức khá cao. Theo số liệu của TCTK, vốn đầu tư toàn xã hội có xu hướng tăng
nhanh qua các năm. Năm 2011, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 877,9 nghìn tỷ đồng, tăng
gấp 2,2 lần so với năm 2006 (398,9 nghìn tỷ đồng)
1
. Với tốc độ tăng cao như vậy, tỷ lệ vốn
đầu tư/GDP tiếp tục duy trì ở mức cao (trên 40%) trong cả giai đoạn 2006-2010; tuy nhiên,
1 Nếu loại trừ yếu tố giá, vốn đầu tư xã hội năm 2010 tăng 49% so với năm 2006.
8
cùng với sự giảm tốc đầu tư theo tinh thần Nghị quyết 11 về giảm tổng cầu nhằm kiểm soát
lạm phát, tỷ lệ này đã giảm mạnh xuống còn 34,6% năm 2011.
Hình 2: Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội/GDP giai đoạn 2006-2011
Đơn vị: %
Nguồn: TCTK.
Về tỷ trọng, mặc dù có xu hướng giảm nhưng khu vực kinh tế nhà nước vẫn chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội (từ mức trung bình 54,1% trong giai đoạn 2000-
2005 xuống 39,1% trong giai đoạn 2006-2010; năm 2011 tỷ trọng này là 38,9%). Đáng chú ý,
tỷ trọng của khu vực kinh tế ngoài nhà nước cũng có xu hướng giảm qua các năm (từ mức
38,1% năm 2006 xuống còn 36,1% năm 2010 và 35,2% năm 2011); trong khi đó, tỷ trọng của
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lại có xu hướng tăng (từ mức 16,2% năm 2006 lên mức
25,9% năm 2011).
Hình 3: Tỷ trọng đầu tư của các khu vực kinh tế trong tổng đầu tư toàn xã hội
giai đoạn 2006-2011
Đơn vị: %
Nguồn: Tính toán từ số liệu của TCTK.
2.1.2. Mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư S-I
Trong những năm gần đây, mất cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư ngày càng trầm
trọng. Trong giai đoạn 2007-2009, mức chênh lệch đã lên đến trên 10% GDP, cao hơn rất
nhiều so với giai đoạn từ 2002-2006
2
. Lý do là trong khi tỷ lệ tiết kiệm khá ổn định, đầu tư
lại có xu hướng tăng nhanh. Bên cạnh đó, nếu trước năm 2007, phần lớn thâm hụt tiết kiệm
của khu vực công (Sg-Ig) được tài trợ bởi thặng dư tiết kiệm của khu vực tư nhân (Sp-Ip)
thì từ năm 2007 trở đi, cả khu vực tư nhân cũng chịu thâm hụt tiết kiệm, kéo theo đó chênh
lệch S-I của cả nền kinh tế tăng nhanh
3
.
Phần thiếu hụt này phải dựa vào nguồn bên ngoài để bù đắp, nhưng nguồn này là
không vững chắc. Do liên tục cần tài trợ từ bên ngoài nên nợ quốc gia (mọi nguồn) cũng
2
Nguyễn Quang Thái (2010) – Chuyên đề số 2/2011. Hội Khoa học kinh tế Việt Nam.
3 Nguyễn Đức Thành (2011) – Báo cáo “Nền kinh tế trước ngã ba đường”.
9
như nợ công (cả trong và ngoài nước) tăng lên nhanh chóng; đồng thời, thâm hụt tài khoản
vãng lai cũng tăng mạnh
4
.
Hình 4: Tiết kiệm - đầu tư và nhập siêu của nền kinh tế giai đoạn 2005-2010
5
Đơn vị: % GDP
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Niên giám thống kê 2010 (trang 140).
2.1.3. Hiệu quả đầu tư
Trong giai đoạn 2006 đến nay, nhìn chung hiệu quả đầu tư của nền kinh tế có xu
hướng giảm, thể hiện qua: (i) hệ số ICOR liên tục tăng (ngoại trừ năm 2011); (ii) chi phí
trung gian tăng nhanh; (iii) đóng góp của nhân tố lao động và TFP vào tăng trưởng kinh tế
đạt mức thấp. Cụ thể:
- Trong giai đoạn 2006-2010, tỷ lệ tổng vốn đầu tư toàn xã hội/GDP luôn ở mức
cao, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế thực chỉ đạt trung bình khoảng 7%/năm đã khiến
cho hệ số ICOR trung bình giai đoạn tăng cao, lên mức 7,17 (cao hơn khá nhiều so với
ICOR của giai đoạn 2000-2005
6
và ICOR của các nước đang phát triển khác
7
).
Đặc biệt vào năm 2009, chỉ số này đã lên tới mức 13,51, báo động về hiệu quả đầu
tư bị sụt giảm một cách nghiêm trọng, dẫn đến nhiều hệ lụy tiêu cực đối với nền kinh tế.
Hình 5: Tốc độ tăng GDP thực tế và hệ số ICOR giai đoạn 2006-2010
Đơn vị: %, lần.
Nguồn: GSO, UBGSTCQG.
4 Bản chất của thâm hụt vãng lai (và thâm hụt thương mại) bắt nguồn từ cấu trúc kinh tế, trong đó cốt lõi
là sự mất cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư: CAB = S-I = (Sp-Ip) + (Sg-Ig).
5 S= GDP + thu nhập tài sản ròng từ nước ngoài + thu nhập chuyển giao ròng + thuế trực thu – (C + G).
Tuy nhiên, do hạn chế về nguồn số liệu, Nhóm nghiên cứu tính toán sơ bộ như sau: S ~ GDP – C.
6 ICOR được tính theo công thức: ICOR = Δk/ΔGDP, trong đó k là tích lũy vốn (capital stock). Tuy
nhiên, do hạn chế về số liệu khấu hao nên Nhóm nghiên cứu tính toán theo công thức ICOR =
(I/GDP)/ΔGDP. Theo cách tính này, hệ số ICOR bình quân của giai đoạn 2000-2005 là 4,89 (tính theo giá
so sánh năm 1994).
7 Cụ thể, hệ số ICOR của các nước (cùng giai đoạn phát triển với Việt Nam) như sau: Malaixia trung bình
dưới 5 trong giai đoạn 2001-2008; Inđônêxia trung bình là 4,4 trong giai đoạn 2001-2008; Thái Lan trung
bình là 4,8 trong giai đoạn 2001-2008. (Nguồn; Fukumari Kimura, Soji Samikawa, 4/2009).
10
- Trong giai đoạn 2006-2010, trong khi tổng giá trị sản xuất tăng trung bình khoảng
11%/năm thì tốc độ tăng giá trị gia tăng chỉ vào khoảng 6%. Điều này cho thấy chi phí trung
gian đang tăng lên nhanh chóng và hiệu quả sản xuất, kinh doanh đang giảm sút.
Hình 6: Tốc độ tăng Tổng sản lượng (GO) và Giá trị gia tăng (VA) của nền kinh tế
giai đoạn 2001-2010
Đơn vị: %
- Trong giai đoạn 2006-2011, theo nhiều nghiên cứu, nền kinh tế Việt Nam chủ yếu
vẫn tăng trưởng dựa vào vốn đầu tư (đóng góp của nhân tố vốn chiếm trên 50%, thậm chí
gần 60%); trong khi đóng góp của nhân tố lao động và TFP
8
còn thấp (tương ứng dưới 20%
và 30%)
9
. Đáng chú ý, phần đóng góp của nhân tố lao động và TFP lại có xu hướng giảm
dần. Theo đó, mô hình tăng trưởng hiện nay là tăng trưởng theo chiều rộng (dựa trên sự
mở rộng nguồn vốn đầu tư), chưa chú trọng đến tăng trưởng theo chiều sâu (tăng trưởng
dựa trên việc cải thiện năng suất, chất lượng, năng lực cạnh tranh…).
Hình 7: Đóng góp của các nhân tố vốn, lao động và TFP
vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2000-2005 và 2006-2010
Đơn vị: %
Nguồn: Bùi Trinh (2011).
2.2. Thương mại
2.2.1. Tổng quan hoạt động xuất nhập khẩu
a) Xuất khẩu
8 Năng suất nhân tố tổng hợp thể hiện sự phát triển của khoa học, công nghệ, tăng năng suất lao động…
9 Theo tính toán của tác giả Bùi Trinh, trong giai đoạn 2000-2005, mức đóng góp của lao động và TFP
vào tăng trưởng GDP tương ứng là 21,28% và 26,64%; trong giai đoạn 2006-2010, mức đóng góp của lao
động và TFP vào tăng trưởng GDP giảm khá mạnh, tương ứng là 15,62% và 7,53%.
11
Thời kỳ 2006 đến nay, hoạt động xuất nhập khẩu đạt được những bước tiến mạnh,
một phần nhờ vào việc Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào thị trường quốc tế
10
.
Trong giai đoạn 2006-2010, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trung bình đạt 56 tỷ USD/năm,
bằng 2,5 lần con số của thời kỳ 2001-2005; tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân đạt
17,2%/năm. Năm 2011, kim ngạch xuất khẩu tăng 33,3%, lên mức 96,26 tỷ USD.
Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu lớn: từ 4 mặt hàng
có kim ngạch xuất khẩu trên 3 tỷ USD năm 2006 đã tăng lên 8 mặt hàng năm 2010. Độ mở
của nền kinh tế trong giai đoạn này có xu hướng tăng, tỷ lệ tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu/GDP năm 2010 ở mức 155,4% và ước đạt 169,8% vào năm 2011.
b) Nhập khẩu
Thời kỳ 2006 đến nay, kim ngạch nhập khẩu có tốc độ tăng cao, đặc biệt trong hai
năm đầu sau khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO: bình quân đạt 68,5 tỷ USD/năm,
bằng 2,6 lần con số của thời kỳ 5 năm trước và tăng bình quân 18%/năm. Năm 2011, kim
ngạch nhập khẩu đạt 105,77 tỷ USD, tăng 25% so với năm 2010.
Nhập siêu giai đoạn 2006-2010 tăng mạnh, bình quân đạt 12,5 tỷ USD/năm, bằng 3,3
lần con số 3,8 tỷ USD của thời kỳ 5 năm trước. Tỷ lệ nhập siêu/xuất khẩu tăng nhanh, từ mức
17,3% của thời kỳ 2001-2005 lên mức 22,3% giai đoạn 2006-2010; tuy nhiên, tỷ lệ này giảm
mạnh trong năm 2011, đạt 9,9%.
Hình 8: Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và nhập siêu giai đoạn 2006-2011
Đơn vị: triệu USD
Nguồn: Tính toán từ số liệu của TCTK.
2.2.2. Nghiên cứu chỉ số lan tỏa và một số gợi ý chính sách
Như trên đã nêu, nhập siêu có xu hướng tăng nhanh cả về khối lượng và tốc độ.
Theo nhiều nghiên cứu, có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng này: tiêu dùng trong nước
tăng nhanh, khả năng sản xuất và xuất khẩu còn hạn chế, năng lực cạnh tranh của hàng
xuất khẩu còn yếu, Việt Nam cần nhập khẩu nhiều máy móc thiết bị, xăng dầu… Tuy
nhiên, để đi sâu chi tiết và lượng hóa xem ngành, lĩnh vực nào chủ yếu gây ra nhập siêu,
cần tính toán chỉ số lan toả về kinh tế và chỉ số kích thích nhập khẩu trên cơ sở phân tích
cấu trúc của nền kinh tế thông qua bảng Cân đối liên ngành (bảng I/O) (xem Phụ lục 3).
10 Tháng 1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO.
12
Kết quả tính toán cho thấy, trong số 16 nhóm ngành chính, chỉ có 2 nhóm ngành có
chỉ số lan toả về kinh tế cao hơn 1 và chỉ số kích thích nhập khẩu nhỏ hơn 1 (nhóm ngành
nông nghiệp và nhóm ngành công nghiệp chế biến sản phẩm từ nông nghiệp). Hầu hết các
ngành chế biến chế tạo đều có chỉ số kích thích nhập khẩu rất cao, cho thấy các ngành này
càng phát triển thì càng kích thích mạnh nhập khẩu.
Nguyên nhân của tình trạng nhập siêu không phải do nhu cầu tiêu dùng cuối cùng vì
nhu cầu tiêu dùng cuối cùng hàng nhập khẩu chỉ chiếm chưa tới 10% trong tổng số nhập
khẩu; chính nhu cầu hàng hóa cho sản xuất mới là nguyên nhân chính gây nhập siêu. Nền
công nghiệp chế biến chế tạo của Việt Nam còn nhiều hạn chế, công nghiệp phụ trợ kém
phát triển, sản xuất chủ yếu mang tính gia công nên đã tạo ra sự phát triển nhanh về số
lượng trong khi chất lượng ít có sự cải thiện. Hầu hết máy móc, nguyên vật liệu chính đều
phải nhập khẩu. Hiệu quả sản xuất ngày càng giảm sút, thể hiện ở việc tỷ lệ chi phí trung
gian trên giá trị sản xuất liên tục tăng lên.
Từ những phân tích trên, có thể thấy, rất cần có sự thay đổi về chính sách thương
mại, ví dụ: cần hướng đầu tư vào những ngành có hệ số lan toả kinh tế cao và chỉ số kích
thích nhập khẩu thấp để phát huy lợi thế (ví dụ nhóm ngành nông nghiệp và công nghiệp
chế biến sản phẩm từ nông nghiệp); đồng thời, cùng với biện pháp tăng xuất khẩu để giảm
nhập siêu, cần nghiên cứu những biện pháp mang tính dài hạn như: tăng hiệu quả đầu tư,
tăng năng lực cạnh tranh, đặc biệt là tăng cường phát triển công nghiệp phụ trợ để tăng
giá trị gia tăng sản xuất trong nước…
II. Lạm phát
Trong giai đoạn 2006 đến nay, lạm phát của Việt Nam nhìn chung đều ở mức 2 con
số (ngoại trừ năm 2009) với mức tăng trung bình là 11,5%/năm, cao gấp hơn 2 lần mức
tăng 5,2%/năm của giai đoạn 2001-2005. Nhìn vào đồ thị có thể thấy, lạm phát trong vòng
hơn 10 năm trở lại đây phân chia thành hai giai đoạn khá rõ nét.
Trong suốt thời gian qua, lạm phát là vấn đề dai dẳng và gây tổn thương nhiều nhất
tới kinh tế Việt Nam khi thường xuyên cao hơn, kéo dài lâu hơn và dao động mạnh hơn so
với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Hình 9: Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng CPI của Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay
Đơn vị: %
Nguồn: TCTK.
13
Qua nghiên cứu của UBGSTCQG, có thể thấy, lạm phát cao trong thời gian là kết
quả của nhiều nguyên nhân, bao gồm:
+ Lạm phát nhập khẩu: Do là nền kinh tế có độ mở lớn
11
nên những cú sốc giá quốc
tế, đặc biệt là giá nhiên liệu và lương thực-thực phẩm, đã góp phần làm tăng CPI của Việt
Nam. Tuy nhiên, ảnh hưởng của giá thế giới đến giá cả trong nước là có mức độ và chưa
phải là nhân tố quyết định làm CPI tăng cao. Bằng chứng là nhiều quốc gia trong khu vực
cũng chịu chung tác động của giá cả quốc tế nhưng mức độ lạm phát thấp hơn nhiều so với
Việt Nam
12
.
+Lạm phát chi phí đẩy: lạm phát trong nước chịu sự tác động của chi phí đẩy bao
gồm cả việc điều chỉnh tỷ giá (theo tính toán của UBGSTCQG, việc điều chỉnh tăng tỷ giá
9,3% vào tháng 2/2011 có thể khiến CPI năm 2011 tăng thêm 1,2%.), điều chỉnh lương và
điều chỉnh giá một số mặt hàng cơ bản (theo tính toán của UBGSTCQG, việc điều chỉnh
giá điện đầu năm 2011 (18%) có thể khiến CPI năm 2011 tăng thêm 0,75%; giá xăng tăng
thêm 20% khiến CPI năm 2011 tăng thêm khoảng 0,5%.). Nhưng ảnh hưởng của chi phí
đẩy ở vòng 1 đến lạm phát chỉ ở mức độ nhất định, chưa phải là yếu tố quyết định làm lạm
phát tăng cao.
+ Lạm phát cầu kéo: lạm phát cầu kéo ở Việt Nam biểu hiện ở việc tổng cầu tăng
quá nhanh, thể hiện qua hai khía cạnh: (i) Tổng phương tiện thanh toán
13
(M2) luôn duy trì
tốc độ tăng cao (M2 tăng 22,8%/năm giai đoạn 2000-2005 và 29,5%/năm giai đoạn 2006-
2010), khiến “độ sâu tài chính” (tính bằng tỷ số M2/GDP) tăng vọt từ mức 97,6% năm
2006 lên tới mức 133,8% năm 2010. Trong giai đoạn 2007-2010, M2 đã tăng 2 lần, trong
khi đó GDP danh nghĩa tăng 1,73 lần và GDP thực tế chỉ tăng 1,2 lần; (ii) sản lượng thực
tế trong những năm gần đây đã tăng quá cao so với tiềm năng
14
, từ đó gây ra lạm phát.
+ Một số yếu tố đặc thù khác: (i) Tình trạng phát triển quá nóng của thị trường bất
động sản, thị trường chứng khoán, tình trạng đôla hóa, vàng hóa nghiêm trọng khiến một
lượng vốn lớn của xã hội không được đầu tư trực tiếp cho sản xuất; (ii) “Kỳ vọng lạm
phát” cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực, tạo thành “lạm phát tâm lý”.
11 Tỷ lệ kim ngạch XNK/GDP lên đến mức 170%; tỷ lệ kim ngạch nhập khẩu/GDP ở mức 89%.
12 Trong giai đoạn 2007-2010, tỷ lệ lạm phát bình quân của Trung Quốc vào khoảng 3,32%/năm; Thái
Lan 3,2%/năm; Malaixia 2,4%/năm; Inđônêxia 6,5%/năm; Philipin 4,8%/năm (nguồn: WB).
13 Tổng phương tiện thanh toán (M2) là biến số có sự quan hệ chặt chẽ với tổng cầu trong nền kinh tế,
thường được sử dụng để đánh giá biến động tổng cầu của nền kinh tế.
14 Theo một số nghiên cứu gần đây, sản lượng thực tế của Việt Nam từ năm 2007 đã vượt quá sản lượng
tiềm năng từ 0,5-1,5 điểm%.
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét