LỜI NÓI ĐẦU
Năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO, đấy là điều đáng lo hay nên mừng đối với
mỗi doanh nghiệp Việt Nam? Đó là câu hỏi mà mỗi nhà kinh doanh đều phải suy nghĩ
khi chèo lái “con thuyền” doanh nghiệp của mình trong biển lớn WTO. Còn đối với
TECHPRO – công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại và đầu tư phát triển công nghệ ,
gia nhập WTO có cơ hội và cả thách thức, bởi vì Techpro là công ty đi đầu trong lĩnh
vực nhập khẩu hàng công nghệ cao (một lĩnh vực luôn luôn biến động và thay đổi
không ngừng cùng với sự bùng nổ của khoa học công nghệ trong thời đại hiện nay) ,
gia nhập WTO sẽ làm cho thuế nhập khẩu giảm, nhu cầu tiêu thụ hàng ngoại chất lượng
cao tăng… – đây là cơ hội để Techpro nâng cao khả năng canh tranh và tìm kiếm thị
trường và khẳng định vị thế của mình. Nhưng gia nhập WTO cũng đồng nghĩa với việc
có nhiều đối tủ cạnh tranh hơn nên khách hàng có nhiều cơ hội lựa chọn hơn. Để tồn tại
các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và TECHPRO nói riêng phải hoàn thiện chính
mình để thích nghi với một “sân chơi lớn”của WTO.Vì vậy khi thực tập tại Techpro em
rất lấy làm thú vị khi Techpro đã chọn marketing làm đòn bẩy để bước vào sân chơi lớn
ấy, điều mà không phải doanh nghiệp Việt nam nào cũng thấy được. Bởi vì điểm rất
yếu của các doanh nghiệp Việt Nam là không thấy được vai trò rất lớn mà marketing
mang lại, vô tình họ đã bỏ đi tài sản vô hình của chính họ mà có thể khai thác hiệu quả
để mang lại thành công. Đó chính là lý do vì sao em lại lựa chọn đề tài: “Ứng dụng
marketing thương mại trong hoạt động kinh doanh tại công ty TNHH thương mại và
đầu tư phát triển công nghệ ”. Đây là một cơ hội tốt để em có thể vận dụng kiến thức
các môn học trên giản đường đặc biệt là môn học mà em rất yêu mến: môn Marketing
thương mại.
Kết cấu bài viết được chia làm 3 chương như sau:
Chương I: Tổng quan về marketing thương mại trong hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng ứng dụng marketing thương mại trong hoạt động
kinh doanh của công ty Techpro qua các năm.
Chương III: Phương hướng và biện pháp đẩy mạnh ứng dụng marketing
thương mại trong hoạt động kinh doanh của công ty Techpro.
Bài viết này của em chỉ nghiên cứu sự ứng dụng marketing giới hạn trong một
doanh nghiệp thương mại cụ thể, đó là công ty Techpro. Và mục tiêu của em khi chọn
đề tài này là tìm hiểu về các hoạt động marketing ứng dụng trong công ty Techpro để từ
đó có thể chỉ ra những điểm mạnh để công ty phát huy và điểm yếu để công ty khắc
phục sao cho việc ứng dụng marketing vào hoạt động kinh doanh của Techpro mang lại
hiệu quả cao nhất.
Chỉ với bốn tuần nghiên cứu, tìm hiểu về hoạt động marketing của công ty là một
thời gian không phải là nhiều, vì vậy việc thu thập, phân tích thông tin về công ty
Techpro còn có nhiều hạn chế, thiếu sót. Mong thầy, cô thông cảm và góp ý thêm để em
hoàn thiện và phát triển bài viết này.
CHƯƠNG I.
TỔNG QUAN VỀ MARKETING THƯƠNG MẠI TRONG
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
I. TỔNG QUAN VỀ MARKETING THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm
1.1. Khái niệm Marketing
Marketing là một từ tiếng Anh mà đến nay trong từ điển Việt Nam vẫn để nguyên
như một từ vay mượn được Việt hoá, bởi vì không thể tìm thấy trong kho tàng Tiếng
Việt một từ, một ngữ nào có thể diễn tả đầy đủ, chính xác nghĩa của từ Marketing.
Marketing được hiểu theo rất nhiều nghĩa với những khái niệm khác nhau. Theo
phạm vi ứng dụng của Marketing thì có hai khái niệm là Macro marketing và Micro
marketing, còn nếu theo đối tượng tác động thì Marketing được hiểu theo hai nghĩa là
Marketing theo quan điểm truyền thống và Marketing theo quan điểm hiện đại, theo
biên giới lãnh thổ thì Marketing còn được hiểu theo khái niệm là Marketing trong nước
và Marketing quốc tế, theo lĩnh vực thì có Marketing thương mại, Marketing chính
trị… Mỗi trường phái khác nhau lại có cách hiểu về Marketing theo nghĩa khác nhau.
Nhưng ở đây, chúng ta xét khái niệm Marketing theo hai giác độ là: theo phạm vi ứng
dụng và theo đối tượng tác đông của Marketing.
1.1.1. Khái niệm Marketing theo phạm vi ứng dụng của Marketing
a. Macro Marketing
Theo cách hiểu này thì Marketing được hiểu trên góc độ lợi ích chung của toàn
xã hội: “Marketing là quá trình xã hội điều khiển các dòng hàng hoá, dịch vụ từ nhà sản
xuất đến người tiêu dung nhằm cân đối cung cầu & thoả mãn các mục tiêu của xã hội.”
Thực ra đây là hoạt động của nhà nước ở tầm vĩ mô, thông qua các điều luật,
pháp lệnh, chỉ tiêu kinh tế…để hạn chế hay khuyến khích sự phát triển của một lĩnh
vực kinh doanh, một ngành hàng, một mặt hàng nhất định để đảm bảo lợi ích chung của
toàn xã hội.
Ở Việt Nam, vào thời kỳ bao cấp, nhiều người cho rằng không hề tồn tại hoạt
động Marketing, nhưng thực tế hoạt động Marketing vẫn diễn ra, đó là Macro
Marketing, không những thế nó còn rất phát triển và góp phần quan trọng để hoàn thành
các nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước sau chiến tranh. Các hoạt động Macro
Marketing đó được thể hiện bởi sự ghép mối cung cầu ở tầm vĩ mô, Nhà nước đưa ra
danh sách các ngành hàng được phép kinh doanh và bị cấm kinh doanh nhằm kiểm soát
lượng cung và cầu sao cho xã hội được lợi nhất và nó phù hợp với hoàn cảnh đất nước
thời kỳ chiến tranh và hậu chiến khi đất nước cần huy động một lực lượng lớn sức
người, sức của cho những mục tiêu chung.
b. Micro Marketing
Nếu như Macro Marketing là hoạt động được áp dụng trong phạm vi rộng của
một ngành hàng, một lĩnh vực kinh doanh, một quốc gia thì Micro Marketing được hiểu
theo nghĩa hẹp hơn trong một doanh nghiệp cụ thể.
Theo E.J.Mc Carthy thì Marketing là quá trình thực hiện các hoạt động nhằm đạt
được các mục tiêu của một tổ chức thông qua việc dự doán các nhu cầucủa khách hàng
hay người tiêu thụ để điều khiển các dòng hàng hoá, dịch vụ thoả mãn các nhu cầu từ nhà
sản xuất tới khách hàng hay người tiêu thụ - (Giáo trình Marketing thương mại).
Ở khái niệm này, ta thấy được mối quan hệ giữa mục tiêu và dự đoán của doanh
nghiệp về nhu cầu thị trường và các biện pháp để chinh phục khách hàng.
Sơ đồ 1: Mối quan hệ giữa các thành phần cấu tạo nên khái niệm Marketing
Để hiểu rõ khái niệm này ta tìm hiểu về các định nghĩa: mục tiêu, dự đoán, điều khiển.
Mục tiêu của doanh nghiệp có 3 mức độ khác nhau như sau:
Mục tiêu cụ thể của doanh nghiệp là các mục tiêu về giá cả, chất lượng sản
phẩm, mục tiêu về quảng cáo, xúc tiến bán…Đây là những mục tiêu dễ nhìn
thấy nhất và phải đạt được sớm nhất, thể hiện hiệu quả trước mắt của hoạt động
kinh doanh.
Mục tiêu trung gian của doanh nghiệpn là tiêu thụ được sản phẩm. Để đạt được
mục tiêu này doanh nghiệp phải thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng đó là
nhu cầu được cung cấp những sản phẩm phù hợp trong thời gian và không gian
thuận lợi nhất, những dịch vụ tiện ích văn minh theo kèm với sản phẩm…
Mục tiêu cuối cùng, quan trọng nhất, là cái đích cao nhất để doanh nghiệp hướng
tới đó chính là mục tiêu về lợi nhuận. Mọi mục tiêu trung gian và trước mắt doanh
nghiệp đặt ra đều hướng tới mục tiêu cuối cùng này.
Từ mục tiêu mà doanh nghiệp đạt ra và hướng tới doanh nghiệp phải tiến hành
nghiên cứu để dự đoán cách thức ứng xử, hành vi mua sắm và các nhân tố ảnh hưởng
đến hành vi mua sắm của khách hàng và xu hướng vận động của nhu cầu. Để có được
các dự đoán này doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu các tham số như:
Nhóm tham số thuộc yếu tố môi trường bên ngoài doanh nghiệp: thị trường,
khách hàng, nhu cầu khách hàng… Đây là các tham số luôn biến động và tạo ra
cơ hội kinh doanh để doanh nghiệp có thể chinh phục.
Mục tiờu Thỏa món nhu cầu khỏch hàng.
Dự đoỏn
Nhu cầu khỏch hàng & xu hướng vận
động của nhu cầu khỏch hàng.
éiều khiển
Dựng Marketing hỗn hợp để bao võy lụi
kộo, thỳc đẩy khỏch hàng mua hàng.
Nhóm tham số thuộc doanh nghiệp: môi trường tổ chức quản lý, điều khiển kinh
doanh…Đây là những tham số tĩnh, ít biến động, là các biện pháp, công cụ để
doanh nghiệp giải quyết các vấn đề do nhóm nhân tố trên đặt ra.
Sau khi có các dự đoán, doanh nghiệp đưa ra các biện pháp có thể kiểm soát được
để chinh phục khách hàng như 4 tham số: sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến.
Ở đây Micro Marketing đã góp phần hoàn thiện các mục tiêu của
Marketing.Micro Marketing không còn đơn thuần với mục tiêu là tạo ra lợi nhuận nữa
mà nó còn có mục tiêu đa hướng là lợi ích của khách hàng, cộng đồng và toàn xã hội.
c. Marketing hỗn hợp
“Marketing hỗn hợp là sự phối hợp hay sắp xếp những thành phần của Marketing
cho phù hợp với hàon cảnh thực tế của doanh nghiệp” – (giáo trình Quản trị doanh
nghiệp thương mại).
Marketing hỗn hợp cổ điển chỉ bao gồm 4 tham số là: sản phẩm, giá cả, phân
phối, xúc tiến hỗn hợp. Nhưng nhiều chuyên gia Marketing hiện đại quan niệm rằng
Marketing hỗn hợp không chỉ bao gồm 4 tham số trên mà thêm các tham số khác như:
đóng gói, kho vận, dịch vụ phục vụ khách hàng, thương hiệu…
Như vậy, Marketing hỗn hợp là sự hoàn thiện của Macro Marketing và Micro
Marketing. Nó không những bao gồm các mục tiêu đa hướng như Micro Marketing mà còn
bao gồm một hệ thống hoàn hảo các biện pháp tiện ích nhất để chinh phục khách hàng.
1.1.2 Khái niệm marketing theo đối tượng tác động của Marketing
a. Marketing truyền thống
Marketing theo quan điểm truyền thống được ra đời trong những giai đoạn đầu
của khái niệm Marketing. Nó được định nghĩa như sau: “Marketing là hoạt động kinh
doanh trong đó hàng hoá đượcđưa từ người sản xuất đến người tiêu thụ” – (Giáo trình
quản trị doanh nghiệp thương mại)
Ở đây, hoạt động kinh doanh là mọi hoạt động đượctổ chức, thực hiện nhằm mục
đích kiếm lời. Như vậy tất cả các hoạt động như: quảng cáo, tăng giá bán, cải tiến mẫu
mã sản phẩm…đều là các hoạt động kiếm lời – là hoạt động marketing chứ không phải
là hoạt động sản xuất hay hoạt động tài chính. Từ đó, ta thấy tư tưởng chính của
Marketing truyền thống là các doanh nghiệp tìm mọi cách bán mọi cái mà họ có chứ
không quan tâm đến khách hàng có nhu cầu hay không. Nhà sản xuất dùng những thiết
bị hiện có để chế tạo, sản xuất sản phẩm và tìm mọi cách để bán đượcchúng trên thị
trường. trên cơ sở đó, doanh nghiệp đưa ra nội dung cơ bản của marketing là tập trung
vào nghiên cứu thị trường để bán được sản phẩm của họ.Vì mục đích cơ bản của
Marketing theo họ là như vậy nên ta thấy trong lịch sử đã có những giai đoạn xảy ra
tình trạng “ khủng hoảng thừa”, tức là doanh nghiệp sản xuất chỉ quan tâm đến số
lượng sản phẩm, và tìm mọi cách để bán sản phẩm đó nên hàng hoá sản xuất ra quá
nhiều mà nhu cầu tiêu dung lại có hạn vì thế các doanh nghiệp không thể bán được sản
phẩm và dẫn đến tình trạng phá sản hàng loạt. Tiếp đó công nhân bị sa thải, người dân
rơi vào tình trạng đói nghèo và nhu cầu tiêu dung của họ lại ít đi doanh nghiệp càng
không bán được hàng - một cái vòng của sự luẩn quẩn cứ thế tiếp tục diễn ra.
Vì vậy, quan niệm Marketing theo góc độ truyền thống trở nên không còn phù
hợp, buộc phải xuất hiện một quan niệm mới hiện đại hơn để thay thế, để phù hợp với
hoàn cảnh mới của lịch sử.
b. Marketing hiện đại
Vào những năm 60 của thế kỷ 20, khi lịch sử thị trường bước sang một trang mới,
cung thị trường đã lớn hơn sự nhỏ bé của cầu thị trường, vì thế người tiêu dùng được
đặt nên vị trí cao hơn khi họ có quyền lựa chọn nhiều hơn và đóng vai trò quyết định sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp buộc phải tham gia vào cuộc
cạnh tranh quyết liệt giữa tồn tại và phá sản. Quan niệm cũ về marketing không còn khả
năng ứng dụng vào thực tế sản xuất kinh doanh, do đó Marketing theo quan điểm hiện
đại ra đời.
“Marketing là sự phân tích, tổ chức, kế hoạch hoá và kiểm tra những khả năng câu
khách của một công ty cũng như những chính sách, những hoạt động với quan điểm
thoả mãn nhu cầuvề mong muốn của nhóm khách hàng đã chọn”
Như vậy, tư tưởng cơ bản của Marketing hiện đại xuất phát từ nhu cầu của
khách hàng để định hướng hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Bắt đầu từ
hoạt động nghiên cứu nhu cầu thị trường, tổ chức hoạt động sản xuất, tiêu thụ và cuối
cùng là thực hiện các hoạt động dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu người tiêu dung thông
qua đó để thu được lợi nhuận.
Ta có thể so sánh 2 quan niệm Marketing theo truyền thống và hiện đại theo 2 sơ
đồ sau:
Định nghĩa truyền thống
Sơ đồ 2: Quan niệm marketing theo quan điểm truyền thống
Định nghĩa hiện đại:
Sơ đồ 3: Quan niệm marketing theo quan điểm hiện đại
Ở đây, nếu như khái niệm Marketing theo quan điểm truyền thống hoạt động
marketing chỉ đơn thuần là hoạt động kinh doanh và đối tượng phục vụ chủ yếu là
người tiêu dùng và khách hàng công nghiệp thì Marketing theo quan điểm hiện đại hoạt
động marketing ngoài việc phục vụ người tiêu dùng và khách hàng công nghiệp còn
liên quan chặt chẽ đến các thành phần khác như: quần chúng, giới cung ứng hàng hoá,
nhà cung cấp…
1.2. Khái niệm Marketing thương mại
Để hiểu thế nào là Marketing thương mại trước hết ta hiểu khái niệm về thương
mại.Theo “Pháp luật trọng tài thương mại năm 2006” thì hoạt động thương mại là việc
thực hiện một hay nhiều hành vi cuat thương mại của cá nhân và tổ chức kinh doanh
bao gồm: mua bán hàng hoá, dịch vụ, phân phối, đại diện , đại lý thương mại; ký gửi;
thuê; cho thuê; thuê mua, xây dựng tư vấn, kỹ thuật lixăng; đầu tư, tài chính, ngân hàng,
bảo hiểm, thăm dò, khai thác, vận chuyển hàng hoá,hành khách bằng hàng không,
Nhà
sản xuất
Hàng hoỏ,
dịch vụ
Người tiờu thụ + khỏch
hàng cụng nghiệp
Nhà sản xuất +
tổ chức phi lợi
nhuận
Tri thức,
hàng hoỏ
Người tiờu thụ + khỏch
hàng cụng nghiệp +
những thành phần khỏc
đường biển đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của
pháp luật”. Như vậy thương mại bao gồm tất cả hoạt động kinh doanh nhằm mục tiêu
sinh lợi của các chủ thể kinh doanh trên thị trường.
Marketing có nguồn gốc từ thương mại, trải qua nhiều thời kỳ phát triển, dần trở
thành một môn khoa học Marketing hoàn chỉnh được vận dụng trong nhiều lĩnh vực:
kinh tế chính trị, xã hội, môi trường…Trong lĩnh vực thương mại: “Marketing thương
mại là quá trình tổ chức quản lý, điều khiển các hoạt động kinh doanh nhằm tạo ra khả
năng và đạt ra hiệu quả kinh doanh cao nhất của doanh nghiệp trên cơ sở thoả thuận tốt
nhất của nhà sản xuất, nhà thương mại, người tiêu thụ.
Như vậy, mục tiêu của Marketing thương mại là đạt được lợi nhuận tối ưu thông
qua tận dụng ưu thế của doanh nghiệp, sử dụng hiệu quả các tiềm năng và tận dụng triệt
để cơ hội kinh doanh trên thị trường.
2. Bản chất, đặc điểm, vai trò của Marketing thương mại trong hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp
2.1. Bản chất của Marketing thương mại
Bản chất của Marketing thương mại thể hiện ở mục tiêu mà nó thể hiện. Mục
tiêu trực tiếp của Marketing thương mại là tạo ra các cơ hội lớn nhất để tiêu thụ tốt nhất
sản phẩm của doanh nghiệp qua đó thực hiện được mục tiêu cuối cùng của Marketing là
đảm bảo lợi nhuận có thể của doanh nghiệp khi tham gia vào quá trình kinh doanh trên
thị trường.
Khi kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường, bất kỳ một nhà kinh doanh
nào đều phải chấp nhận sự may mắn, mạo hiểm, rủi ro có khả năng xảy ra. Những rủi ra
hay may mắn có thể xảy ra bất ngờ ngoài ý muốn của con người nhưng con người hoàn
toàn có khả năng dự đoán, đề phòng, khắc phục được rủi ro đó. Vì vậy doanh nghiệp có
thể hạn chế được rủi ro khi có hệ thống nghiên cứu các biện pháp để phát triển: đó là sự
ra đời của marketing thương mại.
Thực chất của Marketing thương mại là việc xác định vị trí của doanh nghiệp và
khách hàng sao cho phù hợp với điều kiện mới của nền kinh tế hiện đại. Từ đó sử dụng
một cách đồng bộ và khoa học các quan điểm lý thuyết hiện đại về tổ chức và quản trị
kinh doanh trong quá trình tiếp cận và chinh phục khách hàng để thu được lợi nhuận.
2.2. Đặc điểm của Marketing thương mại
Marketing thương mại là một bộ phận của Marketing các ngành kinh doanh vì
vậy nó cũng có những đặc điểm chung giống như marketing nói chung nhưng nó với
những loại hình Marketing này ở lĩnh vực mà Marketing thương mại hoạt động.
Đặc điểm đầu tiên quan trọng chi phối quá trình marketing và sự vận dụng của
nó trong kinh doanh đó là Marketing thương mại chủ yếu là Marketing dịch vụ
bởi vì sản phẩm của Marketing thương mại đem đến cho khách hàng không
phải là hàng hoá vật chất mà chủ yếu là các dịch vụ phục vụ sản xuất và tiêu
dùng xã hội tức là sản phẩm ở dạng đầy đủ nhất, thuận tiện nhất.
Đặc điểm thứ hai marketing thương mại khác các loại hình Marketing khác ở
mục tiêu quan trọng nhất của Marketing thương mại, đó là tìm được khách
hàng, tạo ra khách hàng và định hướng nhu cầu khách hàng để dẫn dắt tất cả
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là các khách hàng mục tiêu,
nhất là mục tiêu khai thác được những khách hàng sao cho 20% khách hàng
tạo ra 80% doanh thu bán hàng.
Đặc điểm thứ ba: Nếu trước kia Marketing thương mại chủ yếu hướng vào kỹ
năng giao dịch đàm phán thì ngày nay hướng vào tạo lập duy trì và phát triển
mối quan hệ với khách hàng và các lực lượng có liên quan trên thị trường.
Đặc điểm thứ tư: Tư tưởng cơ bản của Marketing thương mại là xác định được
chính xác thị trường mục tiêu khách hàng.Thị trường mục tiêu là thị trường mà
doanh nghiệp có thể khai thác nhu cầu khách hàng một cách tốt nhất để thu
được nhiều lợi nhuận nhất.Vì vậy doanh nghiệp phải nghiên cứu thị trường
tổng quát, thị trường cụ thể để xác định từng loại thị trường: thị trường chung,
thị trường sản phẩm, thị trường thích hợp, thị trường trọng điểm …
2.3. Vai trò của Marketing thương mại đối với hoạt động kinh doanh
Doanh nghiệp là một chủ thể kinh doanh là một cơ thể sống của đời sống kinh
tế. Để tồn tại cơ thể sống đó phải có sự trao đổi chất với môi trường bên ngoài đó chính
là thị trường. Qúa trình trao đổi chất đó càng diễn ra thường xuyên, liên tục với quy mô
ngày càng lớn, thì cơ thể đó ngày càng khoẻ mạnh. Ngược lại nếu sự trao đổi chất đó
diễn ra yếu ớt thì cơ thể đó sẽ không phát triển.
Marketing thương mại có vai trò như một bộ phận chức năng của doanh nghiệp, bộ
phận ấy vừa độc lập lại vừa có mối quan hệ chặt chẽ với các bộ phận chức năng khác của
doanh nghiệp. Nếu như doanh nghiệp chỉ có các bộ phận chức năng như: tài chính, nhân
sự, kỹ thuật kinh doanh…thì vẫn không đảm bảo cho sự phát triển và tồn tại của doanh
nghiệp vì vậy không thể tách rời doanh nghiệp khỏi một chức năng quan trọng nhất của
doanh nghiệp đó là chức năng kết nối hoạt động của doanh nghiệp với thị trường: đó chính
là chức năng quan trọng của Marketing thương mại. Nó đảm bảo cho hoạt động của doanh
nghiệp hướng theo thị trường, biết lấy thị trường, nhu cầu, nong muốn của khách hàng làm
chỗ dựa vững chắc nhất cho mọi quyết định trong quá trình kinh doanh.
Vai trò của Marketing thương mại được thể hiện rõ trong sơ đồ sau:
Sơ đồ 5: Mối quan hệ giữa Marketing và kinh doanh
Theo sơ đồ trên kế hoạch thị trường và triển khai thực hiện hoạt động kinh doanh
có mối quan hệ biện chứng với nhau. Kế hoạch thực hiện hoạt động kinh doanh có tốt
đến mấy nhưng kế hoạch thị trường tồi thì doanh nghiệp cũng phá sản nhanh. Kế hoạch
thực hiện hoạt động kinh doanh có kém nhưng kế hoạch phát triển thị trường của doanh
nghiệp tốt thì doanh nghiệp vẫn có thể tồn tại được. Bởi vì Marketing thương mại giúp
doanh nghiệp phát hiện gợi mở & đáp ứng và thoả mãn nhu cầu khách hàng, giúp xác
định các giải pháp hấp dẫn để chào hàng và xây dựng thương hiệu doanh nghiệp.Với
Marketing thương mại, doanh nghiệp biết làm thế nào để làm giá cho giải pháp của
mình một cách hấp dẫn và hợp với người tiêu dung nhất, giúp doanh nghiệp quảng cáo,
Triển
khai
thực
hiện
hoạt
động
kinh
doanh
Kế hoạch thị trường
Tồi
Tốt
Kộm
Phỏ sản nhanh
Phỏ sản chậm
Xuất Sắc
Phỏt triển nhanh
Tồn tại
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét