Chủ Nhật, 9 tháng 2, 2014

công nghệ phát triển đất nước

CHƯƠNGII: CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.Sự cần thiết phải phát triển KH- CN
Cách mạng KH- CN đã và đang diễn ra mạnh mẽ ở các nước phát triển, tức là ở
những nước đã trải qua thời kì cách mạng công nghệ, đã xác lập được nền sản xuất cơ khí
hoá đã có nền KH và CN tiên tiến. Tuy nhiên, nó không chỉ hạn chế trong ranh giới của
các nước phát triển mà ảnh hưởng của nó đang lan ra tất cả các nước trên thế giới . Có thể
nói cách mạng KH- CN là một hiện tượng toàn cầu, hiện tượng quốc tế sớm hay muộn nó
sẽ đến với tất cả dân tộc và các quốc gia trên trái đất
Là một hiện tượng toàn cầu, cuộc mạng KH- CN mang trong bản thân nó những
qui luật chung, phổ biến, chúng tác động vào tất cả các loại hình cách mạng KH- KT.
Nhưng mặt khác, mỗi nước tiến hành cuộc cách mạng này trong những điều kiện riêng
của đất nước mình cho nên cách mạng KH- KT ở những nước khác nhau cũng mang
những màu sắc, những đặc điểm khác nhau. Do đó, khi xem xét cuộc cách mạng KH- KT
ở nước ta cần phải đặt nó trong bối cảnh chung của cách mạng KH- KT trên thê giới.
Sau khi giành được độc lập về chính trị, nước ta có nguyện vọng sử dụng những
thành tựu của cuộc cách mạng KT- CN hiện đại, muốn tiến hành cuộc cách mạng đó để
phát triển kinh tế, văn hoá, khoa học và kỹ thuật để đưa đất nước ta khỏi tình trạng nghèo
nàn và lạc hậu. Nguyện vọng đó là hoàn toàn chính đáng. Tuy nhiên, việc tiến hành cách
mạng KH- CN ở nước ta gặp phải những khó khăn lớn, do nhiều nguyên nhân
Trước hết, nước ta còn ở tình trạng lạc hậu về mặt kinh tế, khoa học và công nghệ.
Nông nghiệp và công nghiệp chưa hết hợp thành một cơ cấu thống nhất, sự mất cân đối
trong các ngành kinh tế quốc dân trở nên trầm trọng
Về mặt văn hoá, khoa học và công nghệ thì số đông dân cư nước ta vẫn ở tình trạng
mù chữ, thiếu lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao, thiếu cán bộ văn hoá và kỹ
thuật. Thêm vào đó, sự tăng dân số quá nhanh đã gây ra những khó khăn cho việc bảo
đảm lương thực, giải quyết công ăn việc làm cho những người lao động
Ngoài những khó khăn trong nước, nước ta còn phải chịu những di sản nặng nề do
sự nô dịch của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân để kại, đồng thời các cường đế
quốc lại đang thực hiện chính sách kìm hãm sự phát triển khoa học và kỹ thuật nhằm duy
trì tình trạng bất bình đẳng của họ trong sự phân công lao động quốc tế

5
Nếu nước ta sau khi đã được giải phóng khỏi sự nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, lại
chọn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa hoặc đứng giữa ngã ba đường trong việc lựa
chọn phương hương phát triển xã hội dù chúng ta có sự cố gắng như thế nào đi nữa trong
việc sử dụng những thành tựu KH- CN hiện đại thì chúng ta cũng không thoát khỏi địa vị
phụ thuộc vào các nước đế quốc về mặt KH- CN và do đó phụ thuộc về mặt kinh tế,
không thể khắc phục được những mâu thuẫn xã hội do tiến bộ khoa học và kỹ thuật gây
ra, không thể tiến hành thành công cuộc cách mạng KH- CN
Do đó, điều kiện kiên quyết để tiến hành cách mạng KH- CN ở nước ta là phải tiến
hành cải tạo xã hội sâu sắc, chống chủ nghĩa đế quốc, chống chủ nghĩa thực dân mới và
các thế lực phản động để đi lên CNXH.
Sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, khoa học và công nghệ nước ta bước đầu
có sự chuyển biến tích cực. Tuy nhiên cho đến nay, nền khoa học và kỹ thuật nước ta vẫn
đang trong tình trạng lạc hậu, chậm phát triển chưa đáp ứng được yêu cầu của đất nước
Về trình độ kỹ thuật- công nghệ, so với các nước tiên tiến nhất trên thế giới, chúng
ta lạc hậu từ 50 đến 100 năm, so với các nước tiên tiến ở mức trung bình ta lạc hậu từ 1
đến 2 thế hệ
Với thực trạng đó, việc tiến hành cuộc cách mạng khoa học – công nghệ ở nước ta
không chỉ được coi là tất yếu khách quan, mà còn là một đòi hỏi bức xúc để đáp ứng yêu
cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là đến năm 2020 về cơ bản nước ta trở
thành nước công nghiệp. Khác với các nước đi đàu, công nghiệp hoá nước ta đòi hỏi phải
thực hiện rút ngắn. chỉ có như thế, chúng ta mới có thể sớm rút ngắn được khoảng cách và
tiến tới đuổi kịp các nước phát triển. Công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá
Cùng với đó, yêu cầu đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường cũng đòi hỏi chúng ta
phải phát triển khoa học và công nghệ. Để chuyển sang nền kinh tế thị trường hiện đại từ
điểm xuất phát thấp, nước ta không thể đi theo các bước tuần tự như các nước đi trước đã
làm, mà phải phát triển theo kiểu “nhảy vọt”,”rút ngắn”. Đây vừa là cơ hội để tận dụng lợi
thế của nước phát triển sau, vừa là thách thức đòi hỏi phải vượt qua. Muốn phát triển
nhanh kinh tế thị trường theo cách thức như vậy, nhất thiết phải đẩy mạnh phát triển khoa
học- công nghệ.

6
Đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ đối với nước ta không chỉ bắt nguồn
từ đòi hỏi bức xúc của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và quá trình phát
triển kinh tế thị trường, mà còn bắt nguồn từ yêu cầu phát triển đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, về bản chất, là một kiểu
định hướng tổ chức nền kinh tế- xã hội vừa dựa trên nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị
trường, vừa dựa trên nguyên tắc và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Định hướng này không
chỉ đòi hỏi nền kinh tế tăng trưởng ở mức cao mà còn đòi hỏi phải xây dựng một xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh.Ở đó, phát triển con người và phát triển xã hội bền vững
được coi là trung tâm. Đâu là con đường phát triển chưacó tiền lệ. Muốn đạt tới đó, chúng
ta phải có nỗ lực và sáng tạo rất cao, phải biết vận dụng những thành tựu mới nhất của
nhân loại, tránh những sai lầm mà các nước khác đã vấp phải. Nếu không đủ trình độ trí
tuệ, không đủ năng lực nội sinh thì khó có thể thành công. Do vậy, đẩy mạnh phát triển
khoa học và kỹ thuật càng trở nên rất quan trọng và bức thiết.
2.Về hướng tác động của KH- CN
a. Tập trung nỗ lực tiến hành cải tạo, đồng bộ, hoá và hiện đại hoá có chọn lọc các
cơ sở sản xuất hiện có
Tuy cơ sở vật chất- kỹ thuật có của nước ta còn nhỏ bé, trình độ công nghệ, kỹ
thuật vào loại lạc hậu, hệ số sử dụng thiết bị và công suất còn thấp. Bởi vậy, nguồn dự trữ
còn khá lớn và dưới nhiều góc độ, đây thật sự đang là nguồn vốn quý của đất nước và
phải bắt đầu từ đây để đi lên
b. Chủ động sử dụng có chọn lọc một số hướng công nghệ tiên tiến phù hợp với thế
mạnh của đất nước nhằm chuẩn bị điều kiện phát triển các ngành có hàm lượng công
nghệ cao
Ở nước ta, cùng với việc tập trung nỗ lực KH- CN khai thác có hiệu quả cơ sở vật
chất- kỹ thuật hiện có, cũng cần phải chăm lo, dành một số phần tiềm lực dư lớn cho việc
thử nghiệm, lựa chọn một sồ hướng công nghệ cao phù hợp để một mặt, hỗ trợ cho việc
giải quyết có hiệu quả hơn, mặt khác thúc đẩy việc hình thành một số lĩnh vực sản xuất
công nghệ cao với quy mô phù hợp để tạo ta các sản phẩm thay thế nhập và tạo chỗ đứng
trên thị trường quốc tế.
Trong số những hướng công nghệ cao, cần quan tâm đầy đủ tới khâu tin học hoá
một số lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội. Cần có quyết tâm trong việc đầu tư phát triển

7
một số lĩnh vực sản xuất gắn với các hương ưu tiên của chương trình tổng hợp tiến bộ
KH- CN. Đó là dịp tốt để VN tham gia vào phân công lao động quốc tế về một số sản
phẩm có hàm lượng khoa học cao
c. Thúc đẩy việc nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của các xí nghiệp nhỏ, của
khu vực tiểu thủ công nghệp cả ở thành thị và nông thôn.
Kinh nghiệm thực tiễn chỉ ra rằng để có thể thực hiện có hiệu quả chiếm lược này,
việc nhanh chóng khắc phục sự lạc hậu về công nghệ, sự yêú kém về năng lực quản lý, sự
thiếu hụt về lực lượng lao động có kỹ thuật là yêu cầu bức bách phải giải quyết .Bởi vậy
việc giành một phần nỗ lực đủ mạnh hướng vào việc giải quyết các nhu cầu khoa học và
công nghệ phục vụ phát triển công nghiệp nông thôn có tầm quan trọng đặc biệt
Những phân tích nêu trên đã tới gợi ý quan trọng là chiến lược phát triển khoa học
và kỹ thuật không thể không quan tâm đến việc nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ
,cải tiến và nên coi đây là một hướng có ý nghĩa chiến lược cả trước mắt và lâu dài .
d.Kết hợp hữu cơ việc tập trung nỗ lực giải quyết các vấn đề trước mắt và tiếp tục
tăng cường tiềm lực khoa học và kỹ thuật nhằm đáp ứng những yêu cầu mới của giai
đoạn phát triển tiếp theo
3. Vai trò của KH- CN đối với một số lĩnh vực
a. Với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn và phát triển nông thôn
Gần 20 năm qua sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã đạt được những
thành tựu to lớn góp phần quan trọng ổn định và phát triển kinh tế xã hội đưa nước ta
bước sang giai đoạn mới đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.Tuy nhiên cho
đến nay với gần 80% dân số của cả nước sống ở nông thôn, trong đó tỷ lệ đói nghèo vẫn
còn trên 22%, có nơi như ở một số huyện miền núi còn trên 42%(theo chuân ngheò mơí).
Mặt khác cũng do nền kinh tế nước ta mới bước đầu chuyển từ nền sản xuất theo cơ chế
tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nên năng
suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản, hàng hoá còn rất thấp so với nhiều nước
trong khu vực và thế giới. Điều đó làm cho thu nhập và tích luỹ của đại bộ phận dân cư
nông thôn còn bấp bênh, sức mua có khả năng thanh toán về tư liệu sản xuất và tư liệu
tiêu dùng đều rất hạn chế, gây ảnh hưởng lớn đến sự chuyển dịch cơ cấu của toàn bộ nền
kinh tế, đồng thời gây cản trở việc, phát triển công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông
thôn

8
So với các giải pháp khác, thì giải pháp về khoa học và công nghệ yêu cầu vốn đầu
tư không quá lớn mà đem lại hiệu quả cao. Theo đánh giá chung, trong nông nghiệp ước
tính 1/3 giá trị tăng của sản xuất lương thực thời gian vừa qua là do người dân tiếp thu,
ứng dụng các tiến bộ khoa học và kỹ thuật mới vào sản xuất
Tuy nhiên, tiềm lực về KH- CN của nước ta chưa được phát huy đầy đủ cho sự
nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nhiều vấn đề bức xúc của sản xuất nông
nghiệp và kinh tế nông thôn đặt ra đối với các lực lượng KH- CN đến nay chưa giải quyết
được, trong đó đáng lưu ý hơn cả là :
- Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là nội dung quan trọng
trong quá trình thực hiên CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, mà sự chuyển đổi đó phụ
thuộc vào việc tổ chức áp dụng thành tựu KH- CN vào sản xuất và các chính sách thúc
đẩy phát triển sản xuất. Chỉ trên cơ sở có đủ giống tốt và các tiến bộ kỹ thuật khác, kết
hợp với việc phát triển các quan hệ thị trường đúng hướng mới có thể chuyển cơ cấu sản
xuất nông nghiệp từ thuần nông, độc canh sang đa dạng hoá cây trồng. Hiện nay việc
chuyển đổi kinh tế nông thôn từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ mới chỉ xuất hiện
ở một số ven vùng có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, có trình độ dân trí cao, có khả năng tiếp thu
các tiến bộ kỹ thuật
-Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng nông, lâm, thuỷ sản hàng năm tuy chiếm gần
40% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước, nhưng nhìn chung, năng suất, chất
lượng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá còn thấp so với các nước trong khu vực và
trên thế giới, khiến cho các sản phẩm làm ra tiêu thụ khó khăn, ảnh hưởng bất lợi đến thu
nhập của người sản xuất. KH-CN chưa có sự tác động cần thiết và hiệu quả bản đảm tính
ổn định, bền vững của nông sản hàng hoá khi gặp phải rủi ro của thiên tai và thị trường
- Phát triển công nghệ chế biến là nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình thực hiện
CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn, nhưng phát triển công nghiệp, chế biến như thế nào
lại là vấn đề bức xúc đang đòi hỏi nghiên cứu và làm rõ
- Gần đây, Nhà nước tiếp tục tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
cho nông nghiệp, nông thôn. Hiện có rất nhiều vấn đề về kỹ thuật để bảo đảm hiệu quả
vốn đầu tư của nhà nước chưa được giải quyết tốt. Do đó, nông nghiệp, nông thôn đang
rất cần có sự tác động của lực lượng KH- CN

9
Tình hình trên khẳng định vai trò của KH- CN trong quá trình thực hiện CNH-
HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay và đó cũng chính là những yêu cầu bức
xúc đặt ra đối với các nhà khoa học vì sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Tuy
nhiên, để huy động được các lực lượng KH- CN phục vụ nông nghiệp, nông thôn, chú ý
các vấn đề về tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành và các chính sách tác động, trong đó cốt
lõi là giải quyết hợp lý lợi ích cho người làm nghiên cứu, triển khai các thành tựu của KH-
CN.
Việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật, công nghệ, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật phục
vụ kinh tế nông nghiệp và nông thôn là một việc làm hiệu quả, đã khẳng định vai trò,
động lực chủ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn,
cần tổ chức, vận động thành phong trào rộng lớn đưa KH- CN về phục vụ CNH, HĐH
nông nghiệp và nông thôn nhằm tạo ra bước chuyển biến rõ rệt về năng suất chất lượng,
hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá, chủ động hội nhập cới khu vực và
quốc tế, góp phần chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn thực hiện đa
dạng hoá cây trồng vật nuôi để có cơ sở lựa chọn, nhân giống các sản phẩm có ưu thế ở
từng vùng, từng địa phương, phát triển công nghiệp, công nghệ chế biến, ứng dụng các
công nghệ sau thu hoạch nhằm hạn chế tổn thất, duy trì chất lượng nông sản, khai thác các
tiềm năng chưa phát huy hết, tăng cường luận cứ khoa học để bảo đảm hiệu quả đầu tư
cho khu vực nông nghiệp và nông thôn.
b. Mối quan hệ giữa KH- CN với sản xuất vật chất
Khoa học có nguồn gốc, bản chất, chức năng sứ mạng từ đời sống thực tiễn của xã
hội, con người. Nó không phải là bản thân công cụ lao động và sức lao động, nhưng cũng
không nằm ngoài thành tố quan trọng nhất là lực lượng sản xuất. Nó không thay thế,
nhưng nó có thể làm thay đổi mạnh mẽ, nhanh chóng tính năng hiệu lực của công cụ lao
động, sức lao động và do đó, phương thức con người tác động đến giới tự nhiên theo
chiều hướng ngày càng tăng cường sức mạnh, vai trò và tự do của con người trước thiên
nhiên. Tuy nhiên, với tính cách là sản phẩm, giá trị đã được sáng tạo ra, đã có sẵn, thì
khoa học không còn là kết quả, mà lại dóng vai trò như một trong những nguyên nhân,
động lực bên trong, trực tiếp thúc đẩy mạnh nhất sự phát triển lực lượng sản xuất
Trong điều kiện “ thông tin hoá “, “toàn cầu hoá” của đời sống xã hội và kinh tế thế
giới ngày nay, nhiều thành tựu của cuộc cách mạng KH- CN có thể được chuyển giao tiếp

10
nhận tương đối nhanh chóng, dễ dàng, tạo ra cơ hội khách quan thuận lợi cho sự phát triển
đột biến, nhảy vọt và bứt phá về kinh tế ở những dân tộc, quốc gia, hay khu vực nhất định
trong những thời điểm, thời kỳ hay giai đoạn nhất định. Nhưng để tranh thủ tân dụng và
phát huy được hết tiềm năng của cơ hội bên ngoài này thì điều kiện tất yếu và tối thiểu là
ở bên trong phải chuẩn bị xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và bồi dưỡng nhân tố con
người lao động ở một nức độ tương ứng, thích đáng. Kinh nghiệm thế giới về việc giải
quyết mối quan hệ “ con người- tư kiệu sản xuất- khoa học” một cách cân đối, hài hoà để
tạo ra hiệu quả tổng hợp tối đa và tối ưu về kỹ thuật là khá toàn diện và
phong phú
Việc xây dựng rõ vị trí tương quan vai trò và ảnh hưởng của KH- CN trong hệ thống
các thành tố lực lượng sản xuất như trên đã đồng thời làm sáng tỏ giới hạn tác động của
nó về mặt xã hội. Sự phát triển của khoa học không trực tiếp dẫn tới sự thay đổi quan hệ
sản xuất và chế độ sở hữu. Trái lại, vai trò “ cách mạng hoá “ của khoa học đối với việc
thúc đẩy sự tăng trưởng của lực lượng sản xuất lại bị chế ước bởi một quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng xã hội nhất định. Nói cách khác, tiềm năng thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển của khoa học là vô tận, nhưng mức độ, giới hạn hiện thực hoá tiềm năng
này lại phụ thuộc “ khuôn khổ “ của quan hệ sản xuất thống trị
Tuy nhiên, sự phát triển như vũ bão của cách mạng KH- CN hiện đại đang diễn ra
từng ngày, từng giờ ở khắp mọi nơi trên thế giới đã có tác dụng cụ thể. Sức tiến công vũ
bão của phong trào giải phong dân tộc, giai cấp tư sản đã chủ động ra sức đẩy mạnh cuộc
cách mạng KH- KT, sử dụng các thành quả của nó để phát triển lực lượng sản xuất, phát
triển kinh tế một cách thành công
Tuy không lạc quan đến mức vội vã và ngộ nhận mà cho rằng, cuộc cách mạng KH-
CN hiện đại sẽ tự động và trực tiếp đưa ngay đến một xã hội thực sự là “ hậu TBCN “,
nhưng chúng ta vẫn có thể ghi nhận những thành tựu lớn lao của cuộc cách mạng này và
có đủ cơ sở để tin tưởng rằng, những thành tựu ấy trong hôm qua, hôm nay và ngày mai
đều góp phần thiết thực thúc đẩy CNTB đi nhanh hơn tới điểm kết thúc không thể tránh
khỏi.
c. Khoa học – công nghệ đã nhanh chóng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp ở
nước ta

11
Việc khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là dự đoán thiên tài của
C.Mác. Dựa trên cơ sở phân tích rõ vai trò của khoa học trong sự phát triển của công
nghiêp, ông đã kết luận : Việc biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp là một quy
luật khách quan của sự phát triển xã hội. Ngày nay dự đoán ấy đang trở thành hiện thực
trong nhiều nước công nghiệp phát triển
Khoa học là một hệ thống tri thức được tích luỹ trong quá trình lịch sử và được
thực tiễn kiểm nghiệm, phản ánh những quy kuật khách quan của thế giới bên ngoài cũng
như hoạt động tinh thần của con người, giúp con người có năng lực cải tạo thế giới
Như vậy, khoa học là” văn hoá biết”, còn sản xuất, kỹ thuật, công nghệ là “ văn hóa
làm “. Từ “biết” đến “ làm “ có một khoảng nhất định nhưng không hề có bức tường nào
ngăn cản tuyệt đối cả. Khoảng cách ấy có thể bị rút ngắn và được rút ngắn đến đâu là tuỳ
thuộc ở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của kỹ thuật, công nghệ và khoa học
Khoa học là kết quả nghiên cứu của quá trình hoạt động thực tiễn, nhưng đến lượt
mình nó lại có vai trò to lớn tác động mạnh mẽ trở lại hoạt động sản xuất. Do đó con
người hoàn toàn có khả năng biến khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Trong thực tế, sự phát triển của khoa học đã giúp con người tăng cường sức mạnh
trong quá trình chinh phục tự nhiên, sử dụng có hiệu quả những sức mạnh của nó. Nếu
không có sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, làm sao con người có thể tạo ta năng lượng
hạt nhân, phóng tàu vũ trụ lên thám hiểm các hành tinh, hay sản xuất ra máy tính điện tử
và người máy công nghiệp thay thế nhiều hoạt động phức tạp của mình.
Khi còn ở trình độ thấp, khoa học tác động tới kỹ thuật và sản xuất còn rất yếu,
nhưng đã phát triển đến trình độ cao như ngày nay thì nó tác động mạnh mẽ và trực tiếp
tới sản xuất. Kỹ thuật và công nghệ là kết quả sự vận dụng những hiểu biết, tri thức khoa
học của con người để sáng tạo, cải biến các công cụ, phương tiện phục vụ cho hoạt động
sản xuất và các hoạt động khác của xã hội. Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp thì dứt khoát phải gắn liền với kỹ thuật và công nghệ. Song như thế chưa đủ. Khoa
học còn phải được người lai động tiếp thu vận dụng để nâng cao kỹ năng, kỹ xảo lao
động, phát triển tư duy kinh tế nhanh nhạy, trau dồi đạo đức, lối sống, v v, mới có thể trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp và mạnh mẽ. Người lao động là chủ thể sử dụng các
phương tiện kỹ thuật. Do đó họ không thể sử dụng được các phương tiện hiện đại để lao
động tốt nếu có trình độ học vấn thấp và không được đào tạo, hay đào tạo kém.

12
Có thể nói, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp vì mấy lẽ sau:
1. Nền sản xuất hiện nay đang phát triển mạnh mẽ, ngày càng có tính chất quốc tế
cao, biến động mau lẹ, phức tạp đang đặt ra nhiều vần đề, mà thiếu khoa học thì không thể
giải quyết và phát triển nhanh chóng được. Đồng thời bản thân nền khoa học hiện đại
cũng đã phát tiển đến mức có đủ điều kiện để có thể giải quyết được những vấn đề của
sản xuất.
2.Ngày nay các máy móc kỹ thuật, công nghệ ngày càng hiện đại, tinh vi và có hàm
lượng trí tuệ cao, thị trường mở rộng, phong phú, phức tạp và đầu biến động, hợp tác giao
lưu nhưng cạnh tranh giữa các quốc gia cũng gay gắt. Muốn sản xuất đạt chất lượng và
hiệu quả cao, người lao dộng không thể chỉ dừng lại ở những kinh nghiệm cảm tính, mà
còn rất cần có nhiều tri thức khoa học, kỹ thuật và kinh tế. Mặt khác, khoa học phải được
con người vận dụng vào hoạt đông thực tiễn sản xuất, hình thành nên những thao tác công
nghệ, kỹ năng,… hợp thành năng lực sáng tạo mới trở thành một lực lượng vật chất.
3. Kỹ thuật công nghệ hiện đại phải có khoa học định hướng, dẫn đường và làm cơ
sở lý thuyết mới có thể phát triển nhanh. Đồng thời các lý thuyết khoa học phải được vật
chất hóa thành các phương tiện kỹ thuật, công nghệ hiện đại mới tác động trực tiếp tới lực
lượng sản xuất.
4.Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật- công nghệ hiện đại,
thời gian để một lý thuyết khoa học đi vào thực tế sản xuất, trực tiếp tạo tra sản phẩm
hàng hoá đang ngày càng được rút ngắn
4. Các nguồn lực để phát triển KH- CN
a. Chăm lo phát triển nguồn nhân lực KH- CN
Nhân tố con người
Nhân tố con người, đã và đang là điều kiện quyết định trong sự nghiệp phát triển
KH- CN của nước ta. Thành công của chúng ta là ở chỗ đã tạo ta một lực lượng cán bộ
KH- CN ban đầu tương đối đông đảo. Mặt khác, chính lĩnh vực này cũng là nơi đang đặt
ta những vấn đề bức thiết, mà việc giải quyết chúng, về thực chất, sẽ quyết định tính hiện
thực của những bước tiếp theo
Đối với KH- CN vấn đề không chỉ là những nhà khoa học, các kỹ sư, kỹ thuật viên
với nghề nghiệp chính thức của họ là làm công tác KH- CN, mà trước hết phải nói đến cả

13
phong trào quần chúng nhân dân đang tham dự vào hoạt đông công nghệ trong sản xuất xã
hội. Bất cứ hoạt động gì trong thực tiễn đời sống và sản xuất đều có quan hệ tới KH- CN.
Yếu tố quan trọng hàng đầu cho tiến bộ khoa và công nghệ là phải tạo ra một mội
trường xã hội thuận lợi cho khoa học và công nghệ phát triển. Ở một mức độ đáng kể, môi
trường đó được tạo nên bởi nhận thức của con người ở mọi tầng lớp xã hội về vai trò của
khoa học và công nghệ
Thấy được ý nghĩa của môi trường khoa học và công nghệ dân chúng là để từ đó
cần chú trọng các biện pháp tác động về mọi mặt : giáo dục, đào tạo, tuyên truyền, phổ
biến, kích thích kinh tế và các biện pháp khác
Đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học
Đào tạo là khâu đầu tiên của một chu trình hình thành và sử dụng nguồn nhân lực
quốc gia về mặt khoa học và công nghệ. Nói đến đào tạo đối với nguồn nhân lực này
trước hết phải kể đến toàn bộ hệ thống giáp dục các cấp, từ phổ thông cơ sở, phổ thông
trung học, giáo dục chuyên nghiệp đến đại học và trên đại học.
Tuy nhiên, so với yêu cầu chuẩn bị cán bộ khoa học và công nghệ để đẩy mạnh
công nghệ hoá trong giai đoạn sắp tới thì đội ngũ cán bộ ấy vẫn thiếu về số lượng và yếu
về chất lượng. Không thể vì một số khó khăn trước mắt mà hạn chế qui mô và tốc độ đào
tạo. Con người luôn luôn là vốn quý nhất và đào tạo nhân lực lao động khoa học là vấn đề
chiến lược trọng yếu mà bất cứ nước nào muốn phát triển thành công cũng đều phải hết
sức quan tâm
Hệ thống giáo dục phổ thông, khâu đầu của đào tạo khoa học và công nghệ của
chúng ta hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn. Và hệ thống giáo dục đại học và chuyên
nghiệp còn nhỏ bé, chưa cân đối với các bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Về cơ
bản, cách giáo dục của ta còn nặng về trang bị kiến thức, nặng về lý thuyết, nhẹ về bồi
dưỡng kỹ năng thực hành, ít chú trọng phương pháp tự đào tạo trong hoạt động thực tiễn.
Đó cũng là nhược điểm phổ biến của hệ thống giáo dục của nhiển nước xã hội chủ nghĩa
mà một bộ phận quan trọng cán bộ khoa học và công nghệ của chúng ta đã được đào tạo
qua .
Chúng ta không thể vừa lòng với tình trạng sử dụng cán bộ khoa học và công nghệ
không bình thường như hiện nay và càng không thể định con đường phát triển của ngành
đào tạo đại học,mà không tính đến bước phát mạnh mẽ của nước ta sau này. Dù có những

14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét