Chuyên đề tốt nghiệp Sinh viên: Trần Nguyên Linh
khấu thơng phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (là ngời mua),
giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
+ Cho vay tiêu dùng: Trong giai đoạn đầu, các ngân hàng không tích cực
cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình do tính rủi ro cao. Sự gia tăng thu nhập
của ngời tiêu dùng và sự cạnh tranh đã buộc các ngân hàng phải hớng tới ngời
tiêu dùng nh một khách hàng tiềm năng. Sau thế chiến thứ hai, tín dụng tiêu
dùng đã trở thành loại hình tín dụng tăng trởng nhanh nhất tại các nớc có nền
kinh tế phát triển.
+ Tài trợ cho dự án: Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn,
các ngân hàng cũng ngày càng quan tâm vào việc tài trợ cho xây dựng nhà máy
mới đặc biệt là tài trợ trong các ngành công nghệ cao. Một số ngân hàng còn cho
vay để đầu t vào bất động sản. Tất nhiên, loại hình tín dụng này rủi ro tơng đối
cao.
Các khoản cho vay, nơi tiềm ẩn những rủi ro hơn cả, luôn chiếm phần lớn
trong tổng tài sản của NH. Nếu không đợc kiểm soát chặt chẽ các khoản vay rất
dễ bị thất bại, trực tiếp ảnh hởng tới lợi nhuận, thậm chí đe doạ sự tồn tại của
ngân hàng khi những nhu cầu rút tiền gửi của khách hàng không đợc đáp ứng.
Vậy thì, cho ai vay nh thế nào, quản lý việc sử dụng tiền vay, tiến hành thu nợ
gốc và lãi ra sao là những vấn đề mà ngân hàng phải giải quyết trớc và trong
quá trình cho vay, nhằm có đợc những khoản cho vay an toàn và hiệu quả. Chính
vì thế, giai đoạn xem xét trớc khi cho vay, xem xét ngời vay tiền và việc sử dụng
tiền vay mà ngời ta gọi là thẩm định tín dụng luôn chiếm vị trí quyết định.
- Đầu t
Hoạt động đầu t chủ yếu của Ngân hàng trên thị trờng tài chính thông qua
việc mua bán các chứng khoán: công trái và tín phiếu. Thu nhập của Ngân hàng
từ hoạt động này là khoản chênh lệch giữa giá bán và giá mua. Ngoài ra Ngân
hàng còn hùn vốn liên doanh với các doanh nghiệp, trong quá trình đó Ngân
hàng sẽ đợc chia lợi nhuận từ hoạt động này.
- 5 -
Chuyên đề tốt nghiệp Sinh viên: Trần Nguyên Linh
* Hoạt động cung cấp các dịch vụ:
Tận dụng vị trí uy tín, chuyên môn của mình là một trung gian tài chính
có nhiều quan hệ với khách hàng, có khả năng tiếp cận với nhiều nguồn thông
tin, các ngân hàng ngày nay cung cấp rất nhiều các dịch vụ khác nhau từ dịch vụ
thanh toán, bảo lãnh, làm đại lý cho đến việc lập két giữ tiền, của cải phục vụ
cho khách hàng. Các dịch vụ này có thể hoàn toàn độc lập hoặc có thể liên quan
hỗ trợ cho các hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng (đặc biệt là hoạt
động thanh toán) nhng chúng đều đem lại thu nhập cho ngân hàng dới dạng phí
dịch vụ. Đối với hầu hết các ngân hàng, thu nhập từ việc cung cấp các dịch vụ
ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập.
1.2 Giới thiệu chung về thẻ
1.2.1. Sự ra đời và phát triển của thẻ trên thế giới
Cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống nhân dân ngày càng đợc nâng cao,
nhu cầu tiêu dùng cũng vì thế phát triển mạnh, qua đó nhu cầu thanh toán nhanh
chóng và thuận tiện trở thành một yêu cầu của khách hàng đối với ngân hàng.
Điều này gây áp lực lên các ngân hàng đòi hỏi các ngân hàng phải nâng cao chất
lợng dịch vụ thanh toán của mình nhằm cung cấp cho khách hàng dịch vụ thanh
toán tốt nhất. Cũng trong thời gian đó, khoa học kỹ thuật thế giới đã có những b-
ớc tiến đáng kể trong lĩnh vực thông tin, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân
hàng, các tổ chức tín dụng phát triển và hoàn thiện phơng thức thanh toán của
mình, trong đó phải kể đến sự ra đời và phát triển của hình thức thanh toán bằng
thẻ.
Những hình thức sơ khai của thẻ xuất hiên lần đầu ở Mỹ vào những năm
1920 dới cái tên tạm gọi là đĩa mua hàng (shoopers plate). Ngời chủ sở hữu
của loại đĩa này có thể mua hàng tại cửa hiệu phát hành ra chúng và hàng
tháng họ phải hoàn trả tiền cho chủ cửa hàng vào một ngày cố định, thờng là
cuối tháng. Thực chất ở đây chính là việc ngời chủ cửa hàng đã cấp tín dụng cho
khách hàng bằng cách bán chịu, mua hàng trớc và trả tiền sau.
- 6 -
Chuyên đề tốt nghiệp Sinh viên: Trần Nguyên Linh
Tuy nhiên, thẻ ngân hàng lại ra đời một cách ngẫu nhiên vào năm 1940
với tên gọi đầu tiên là thẻ DINNERS CLUB do ý tởng của một doanh nhân ngời
Mỹ là Frank Mc Namara. Năm 1950 chiếc thẻ nhựa đầu tiên đợc phát hành,
những ngời có thẻ DINNERS CLUB này có thể ghi nợ khi ăn tại 27 nhà hàng tại
thành phố New York và phải chịu một khoản lệ phí hàng năm là 5USD. Những
tiện ích của chiếc thẻ ngay lập tức gây đợc sự chú ý và đã chinh phục một lợng
đông đảo khách hàng do họ có thể mua hàng trớc mà không cần phải trả tiền
ngay. Còn đối với những nhà bán lẻ, tuy phải chịu mức chiết khấu là 5% nhng
doanh thu của họ tăng đáng kể do lợng khách hàng tiêu dùng tăng lên rất nhanh.
Đến năm 1951, hơn 1 triệu đôla đợc ghi nợ, doanh số phát hành thẻ ngày càng
tăng và công ty phát hành thẻ DINNERS CLUB bắt đầu có lãi. Một cuộc cách
mạng về thẻ diễn ra ngay sau đó đã nhanh chóng đa thẻ trở thành một phơng tiện
thanh toán mang tính toàn cầu. Tiếp nối thành công của thẻ DINNERS CLUB,
hàng loạt các công ty thẻ nh Trip Change, Golden Key, Esquire Club ra đời.
Phần lớn các thẻ này trớc hết đợc phát hành nhằm phục vụ giới doanh nhân, nh-
ng sau đó các ngân hàng nhận thấy rằng giới bình dân mới là đối tợng sử dụng
thẻ trong tơng lai.
Năm 1960, Bank of America cho ra đời sản phẩm thẻ đầu tiên của mình là
BANKAMERICARD. Đến năm 1966, 14 ngân hàng hàng đầu của Mỹ thành lập
Interbank, một tổ chức mới với chức năng là đầu mối trao đổi các thông tin về
giao dịch thẻ. Ngay sau đó, vào năm 1967, 4 ngân hàng bang California đổi tên
từ Bank Card Association thành Western State Bank Card Association và tổ chức
này đã liên kết với Interbank cho ra đời thẻ MASTER CHARGE, loại thẻ này đã
nhanh chóng trở thành một đối thủ cạnh tranh lớn của BANKAMERICARD.
Đến năm 1977, tổ chức BANKAMERICARD đổi tên thành VISA USD và sau đó
là tổ chức thẻ quốc tế VISA. Năm 1979, tổ chức thẻ MASTER CHARGE đổi tên
thành MASTER CARD. Hiện nay, 2 tổ chức này vẫn đang là 2 tổ chức thẻ lớn
mạnh và phát triển nhất trên thế giới.
- 7 -
Chuyên đề tốt nghiệp Sinh viên: Trần Nguyên Linh
Hình thức thanh toán thẻ nhanh chóng đợc ứng dụng rộng rãi ở các châu
lục khác ngoài Mỹ, năm 1960 chiếc thẻ nhựa đầu tiên có mặt tại Nhật báo hiệu
sự phát triển của thẻ ở Châu á. Chiếc thẻ nhựa đầu tiên do ngân hàng Barcaly
Bank phát hành ở Anh năm 1966 cũng mở ra một thời kì sôi động cho hoạt động
thanh toán thẻ tại Châu Âu.
Tại Việt Nam, chiếc thẻ đầu tiên đợc chấp nhận là vào năm 1990 khi VCB
kí hợp đồng làm đại lí chi trả thẻ VISA với ngân hàng Pháp BFCE và đây đã là b-
ớc khởi đầu cho dịch vụ này phát triển ở Việt Nam.
Ngày nay, thẻ ngân hàng đã có mặt ở khắp nơi trên thế giới với những hình
thức và chủng loại đa dạng, đáp ứng đầy đủ những nhu cầu riêng lẻ của ngời tiêu
dùng. Cùng với sự phát triển của 2 tổ chức thẻ quốc tế là VISA và MASTER, một
loạt các tổ chức thẻ mang tính quốc tế khác nối tiếp xuất hiện nh: JCB, American
Epress, Airplus, Maestro, Eurocard, Sự phát triển mạnh mẽ này đã khẳng định
xu thế phát triển tất yếu của thẻ. Các ngân hàng và công ty tài chính luôn tìm
cách cải thiện sao cho càng ngày thẻ càng dễ xử dụng và cung cấp những dịch vụ
thanh toán tiện lợi nhất cho ngời tiêu dùng. Hiện nay, ngời sử dụng thẻ có thể sử
dụng thẻ trên hầu hết các nớc trên thế giới, họ không còn lo việc chuyển đổi sang
đồng tiền nội địa khi đi ra nớc ngoài.
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm cấu tạo và phân loại thẻ
1.2.2.1. Khái niệm thẻ
Thẻ thanh toán là một phơng tiện thanh toán không dùng tiền mặt do các
ngân hàng hay các tổ chức tài chính phát hành và cung cấp cho khách hàng.
Khách hàng có thể sử dụng để rút tiền mặt tại các ngân hàng đại lý, các máy rút
tiền tự động (ATM) hoặc thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ.
1.2.2.2. Đặc điểm cấu tạo của thẻ
Kể từ khi ra đời cho đến nay, cấu tạo của thẻ tín dụng đã có những thay
đổi khá lớn nhằm tăng độ an toàn và tính tiện dụng cho khách hàng. Ngày nay,
- 8 -
Chuyên đề tốt nghiệp Sinh viên: Trần Nguyên Linh
với những thành tựu của kĩ thuật vi điện tử, một số loại thẻ đợc gắn thêm một
con chip điện tử nhằm tăng khả năng ghi nhớ thông tin và tính bảo mật cho thẻ.
Hầu hết các loại thẻ tín dụng quốc tế ngày nay đều đợc cấu tạo bằng nhựa
cứng (plastic), có kích cỡ 84mm x 54mm x 0,76mm, có góc tròn gồm hai mặt:
* Mặt trớc của thẻ bao gồm:
- Tên, biểu tợng thẻ và huy hiệu của tổ chức phát hành thẻ.
- Số thẻ: là số dành riêng cho mỗi chủ thẻ. Số này đợc dập nổi trên thẻ và
sẽ đợc in lại trên hóa đơn khi chủ thẻ đi mua hàng. Tuỳ theo từng loại thẻ mà có
số chữ số khác nhau và cách cấu trúc theo nhóm cũng khác nhau.
- Ngày hiệu lực của thẻ: là thời hạn mà thẻ đợc lu hành.
- Họ và tên của chủ thẻ.
- Số mật mã đợt phát hành (chỉ có ở thẻ AMEX).
* Mặt sau của thẻ bao gồm:
- Dãy băng từ có khả năng lu trữ những thông tin nh: số thẻ, ngày hiệu lực,
tên chủ thẻ, tên ngân hàng phát hành, số PIN.
- Băng chữ ký mẫu của chủ thẻ.
1.2.2.3. Phân loại thẻ
Dựa vào các tiêu chí khác nhau ngời ta phân loại thẻ thành:
- 9 -
Chuyên đề tốt nghiệp Sinh viên: Trần Nguyên Linh
1.2.2.3.1 Phân loại theo đặc tính kỹ thuật
* Thẻ băng từ (Magnetic Stripe): đợc sản xuất dựa trên kỹ thuật từ tính
với 1 băng từ chứa 2 rãnh thông tin ở mặt sau của thẻ. Thẻ này đợc sử dụng phổ
biến trong vòng 20 năm nay. Tuy nhiên nó có một số nhợc điểm sau:
- Khả năng bị lợi dụng cao do thông tin ghi trong thẻ không tự mã hóa đ-
ợc, ngời ta có thể đọc thẻ dễ dàng bằng thiết bị đọc gắn với máy vi tính.
- Thẻ mang tính thông tin cố định, khu vực chứa thông tin hẹp không áp
dụng các kỹ thuật mã đảm bảo an toàn. Do đó, trong những năm gần đây đã bị
lợi dụng lấy cắp tiền
* Thẻ thông minh (thẻ điện tử có bộ vi xử lí chip): là thế hệ mới nhất của
thẻ thanh toán, thẻ thông minh dựa trên kỹ thuật vi xử lý tin học nhờ gắn vào thẻ
"chip" điện tử có cấu trúc giống nh một máy tính hoàn hảo. Thẻ thông minh an
- 10 -
Thẻ
thanh
toán
Tính chất
thanh toán
Hạn mức tín
dụng
Phạm vi sử
dụng
Chủ thể phát
hành
Đặc tính kỹ
thuật
Thẻ
băng
từ
Thẻ
thông
minh
Thẻ
ngân
hàng
phát
hành
Thẻ
do
tổ
chức
phi
ngân
hàng
phát
hành
Thẻ
tín
dụng
Thẻ
ghi
nợ
Thẻ
rút
tiền
mặt
Thẻ
vàng
Thẻ
thường
Thẻ
trong
nước
Thẻ
quốc
tế
Chuyên đề tốt nghiệp Sinh viên: Trần Nguyên Linh
toàn và hiệu quả hơn thẻ băng từ do "chip" có thể chứa thông tin nhiều hơn 80
lần so với dãy băng từ.
1.2.2.3.2 Phân loại theo chủ thể phát hành
* Thẻ do ngân hàng phát hành: là loại thẻ giúp cho khách hàng sử dụng
linh động tài khoản của mình tại ngân hàng, hoặc sử dụng một số tiền do ngân
hàng cấp tín dụng, loại thẻ này hiện nay đợc sử dụng khá phổ biến, nó không chỉ
lu hành trong một số quốc gia mà còn có thể lu hành trên toàn cầu (ví dụ nh: thẻ
VISA, MASTER ).
* Thẻ do các tổ chức phi ngân hàng phát hành: là loại thẻ du lịch và giải
trí của các tập đoàn kinh doanh lớn phát hành nh DINNERS CLUB, AMEX và
cũng lu hành trên toàn thế giới.
1.2.2.3.3 Phân loại theo tính chất thanh toán của thẻ
* Thẻ tín dụng (Credit Card): đây là loại thẻ mà khi sử dụng, chủ thẻ đợc
ngân hàng phát hành cấp một hạn mức tín dụng theo qui định và không phải trả
lãi nếu chủ thẻ hoàn trả số tiền đã sử dụng đúng kỳ hạn để mua sắm hàng hóa,
dịch vụ tại những cơ sở kinh doanh, cửa hàng, khách sạn chấp nhận loại thẻ
này.
* Thẻ ghi nợ (Debit Card): là phơng tiện thanh toán tiền hàng hoá, dịch
vụ hay rút tiền mặt trên cơ sở số tiền có trong tài khoản của chủ thẻ tại ngân
hàng. Thẻ ghi nợ có hai loại cơ bản:
- Thẻ on-line là thẻ ghi nợ mà giá trị những giao dịch đợc khấu trừ ngay
lập tức vào tài khoản của chủ thẻ khi xuất hiện giao dịch.
- Thể off-line là thẻ ghi nợ mà giá trị những giao dịch sẽ đợc khấu trừ vào
tài khoản của chủ thẻ sau khi giao dịch đợc thực hiện vài ngày.
Thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng có một số điểm khác biệt rõ rệt:
- 11 -
Chuyên đề tốt nghiệp Sinh viên: Trần Nguyên Linh
Điểm khác biệt lớn nhất giữa hai loại thẻ là với thẻ tín dụng, khách hàng
chi tiêu theo hạn mức tín dụng do ngân hàng cấp, còn với thẻ ghi nợ khách hàng
chi tiêu trực tiếp trên tài khoản tiền gửi của mình tại ngân hàng.
Thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ là phơng tiện thanh toán bình đẳng và dành cho
tất cả mọi ngời, mọi lứa tuổi, nghành nghề. Cả hai loại thẻ đều có thể giúp khách
hàng tránh đợc những rủi ro đáng tiếc có thể xảy ra khi phải mang theo tiền mặt.
Đặc biệt, thẻ tín dụng quốc tế là phơng tiện thanh toán tiện lợi an toàn đối với
những ngời thờng xuyên đi công tác nớc ngoài.
* Thẻ rút tiền mặt (Cash Card): là một hình thức của thẻ ghi nợ song chỉ
có một chức năng là rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động (ATM) hoặc ở ngân
hàng. Với chức năng chuyên biệt chỉ dùng để rút tiền, số tiền rút ra mỗi lần sẽ đ-
ợc trừ dần vào số tiền ký quĩ.
1.2.2.3.2 Phân loại theo chủ thể phát hành
* Thẻ do ngân hàng phát hành: là loại thẻ giúp cho khách hàng sử dụng
linh động tài khoản của mình tại ngân hàng, hoặc sử dụng một số tiền do ngân
hàng cấp tín dụng, loại thẻ này hiện nay đợc sử dụng khá phổ biến, nó không chỉ
lu hành trong một số quốc gia mà còn có thể lu hành trên toàn cầu (ví dụ nh: thẻ
VISA, MASTER ).
* Thẻ do các tổ chức phi ngân hàng phát hành: là loại thẻ du lịch và giải
trí của các tập đoàn kinh doanh lớn phát hành nh DINNERS CLUB, AMEX và
cũng lu hành trên toàn thế giới.
1.2.2.3.4 Phân loại theo hạn mức tín dụng
* Thẻ thờng (Standard Card): Đây là loại thẻ căn bản nhất, là loại thẻ
mang tính chất phổ biến, đại chúng, đợc hơn 142 triệu ngời trên thế giới sử dụng
mỗi ngày. Hạn mức tối thiểu tuỳ theo Ngân hàng phát hành qui định (thông
thờng khoảng 1000 USD)
* Thẻ vàng (Gold card): là loại thẻ đợc phát hành cho những đối tợng
"cao cấp", những khách hàng có mức sống, thu nhập và nhu cầu tài chính cao.
- 12 -
Chuyên đề tốt nghiệp Sinh viên: Trần Nguyên Linh
Loại thẻ này có thể có những điểm khác nhau tuỳ thuộc vào tập quán, trình độ
phát triển của mỗi vùng, nhng chung nhất vẫn là thẻ có hạn mức tín dụng cao
(trên 5000 USD) hơn thẻ thờng.
1.2.2.3.5 Phân loại theo phạm vi sử dụng của thẻ
* Thẻ dùng trong nớc: Có 2 loại
- Local use only card: là loại thẻ do tổ chức tài chính hoặc ngân hàng
trong nớc phát hành, chỉ đợc dùng trong nội bộ hệ thống tổ chức đó mà thôi.
- Domestic use only card: là thẻ thanh toán mang thơng hiệu của tổ chức
thẻ quốc tế đợc phát hành để sử dụng trong nớc.
* Thẻ quốc tế (International card): là loại thẻ không chỉ dùng tại quốc gia
nơi nó đợc phát hành mà còn dùng đợc trên phạm vi quốc tế. Để có thể phát hành
loại thẻ này thì ngân hàng phát hành phải là thành viên của một tổ chức thẻ quốc
tế.
1.3 Hoạt động thanh toán thẻ tại Ngân hàng thơng mại
1.3.1. Chủ thể tham gia vào hoạt động thanh toán thẻ
Sơ đồ trên cho thấy một giao dịch thanh toán thẻ có 5 chủ thể tham gia.
- 13 -
Ngân hàng
phát hành
Tổ chức
thẻ quốc tế
Ngân hàng
thanh toán
Cơ sở
chấp nhận thẻ
Chủ thẻ
Chuyên đề tốt nghiệp Sinh viên: Trần Nguyên Linh
* Tổ chức thẻ quốc tế: là tổ chức đứng ra liên kết các thành viên là các
ngân hàng, tổ chức tín dụng, các công ty phát hành thẻ, đặt ra các quy tắc bắt
buộc các thành viên phải áp dụng thống nhất theo một hệ thống toàn cầu. Bất cứ
ngân hàng nào hiện nay hoạt động trong lĩnh vực thanh toán thẻ quốc tế đều phải
là thành viên của một Tổ chức thẻ quốc tế. Mỗi Tổ chức thẻ quốc tế đều có tên
trên sản phẩm của mình. Khác với ngân hàng thành viên, Tổ chức thẻ quốc tế
không có quan hệ trực tiếp với chủ thẻ hay cơ sở chấp nhận thẻ, mà chỉ cung cấp
một mạng lới viễn thông toàn cầu phục vụ cho quy trình thanh toán, cấp phép
cho ngân hàng thành viên một cách nhanh chóng.
* Ngân hàng phát hành: là ngân hàng đợc sự cho phép của tổ chức thẻ
hoặc công ty thẻ trong việc phát hành thẻ mang thơng hiệu của mình. Ngân hàng
phát hành trực tiếp tiếp nhận hồ sơ xin cấp thẻ, xử lý và phát hành thẻ, mở và
quản lý tài khoản thẻ của khách hàng, quy định các điều khoản, điều kiện sử
dụng thẻ cho khách hàng là chủ thẻ. Ngân hàng phát hành có quyền kí hợp đồng
đại lý với bên thứ 3 là một ngân hàng hay một tổ chức tín dụng khác trong việc
thanh toán hoặc phát hành thẻ. Từng định kỳ, ngân hàng phát hành phải lập bảng
sao kê ghi rõ các khoản cụ thể đã sử dụng và yêu cầu thanh toán đối với chử thẻ
tín dụng hoặc khấu trừ trực tiếp vào tài khoản của chủ thẻ ghi nợ
* Ngân hàng thanh toán: là ngân hàng chấp nhận các giao dịch thẻ nh
một phơng tiện thanh toán thông qua việc kí kết các hợp đồng chấp nhận thẻ với
các điểm cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Qua việc kí kết hợp đồng, các địa điểm
cung cấp hàng hóa, dịch vụ này đợc chấp nhận vào hệ thống thanh toán thẻ của
ngân hàng, ngân hàng sẽ cung cấp các thiết bị đọc thẻ, đào tạo nhân viên về dịch
vụ thanh toán thẻ, quản lí và xử lí những giao dịch thẻ diễn ra tại địa điểm này.
Trên thực tế, rất nhiều ngân hàng vừa là ngân hàng phát hành,vừa là ngân hàng
thanh toán.
* Chủ thẻ: là cá nhân hay ngời đựơc uỷ quyền đợc ngân hàng cho phép sử
dụng thẻ để chi trả các hàng hóa, dịch vụ hay rút tiền mặt theo những điều kiện,
quy định của ngân hàng. Một chủ thẻ có thể sở hữu một hay nhiều thẻ.
- 14 -
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét