Thứ Hai, 17 tháng 2, 2014
Lao Động và Tiếp Cận Việc Làm
BẢNG
Bảng 1: Cơ cấu lực lượng lao động chia theo trình độ giáo dục 32
Bảng 2: Các chỉ số giáo dục đối với các nền kinh tế châu Á có tốc độ tăng trưởng nhanh 34
Bảng 3: Cơ cấu tăng dân số thành thị ở Trung Quốc, 1950-2000 44
Bảng 4: Việt Nam: các chỉ số đói nghèo và bất bình đẳng 62
Bảng 5: Cơ cấu sản lượng và cơ cấu việc làm (%) 64
Bảng 6: Tăng trưởng việc làm ở Việt Nam 65
Bảng 7: Tăng việc làm của Việt Nam theo ngành 2000-08 68
Bảng 8: Lực lượng lao động của Việt Nam lớn và đang tăng lên 69
Bảng 9: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động Việt Nam đang giảm đi (%) 70
Bảng 10: Số năm đến trường trung bình của dân số trong độ tuổi lao động 71
Bảng 11: Tỷ trọng lao động có tay nghề ở Việt Nam 72
Bảng 12: Bất bình đẳng về giáo dục ở Việt Nam (Hệ số Gini về số năm đến trường) 72
Bảng 13: Việc làm hưởng lương tại Việt Nam đang tăng lên 79
Bảng 14: Tăng lương theo trình độ giáo dục 79
Bảng 15: Tốc độ và mức độ đô thị hoá ở một số nước 82
Bảng 16: Người dân diện đăng ký tạm trú ngắn hạn KT4 theo tuổi và trình độ giáo dục, Tp.
Hồ Chí Minh, 2004 84
Bảng 17: Tác động của tăng trưởng vốn cho sản xuất hàng xuất khẩu tới kinh tế vĩ mô (%
thay đổi) 99
Bảng 18: Tác động của tăng trưởng vốn cho sản xuất hàng xuất khẩu tới tiền lương và việc
làm trong sản xuất hàng xuất khẩu (% thay đổi) 101
Bảng 19: Tác động của tăng trưởng vốn cho sản xuất hàng xuất khẩu tới nghèo đói và phân
phối thu nhập 103
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: GDP bình quân đầu người (USD, theo giá năm 2000) ở một số nền kinh tế trong
khu vực 16
Biểu đồ 2: Hệ số phụ thuộc theo độ tuổi (dân số trong độ tuổi lao động/tổng dân số) 17
Biểu đồ 3: Năng suất lao động thực bình quân qua các thập kỷ (USD, theo giá năm 2000) 17
Biểu đồ 4: Tăng năng suất lao động thực (năm 1984=100) 18
Biểu đồ 5: Giá trị gia tăng của nông nghiệp (% GDP) 18
Biểu đồ 6: Tỷ lệ đô thị hoá (% dân số) 19
Biểu đồ 7: NIEs: Tăng trưởng GDP bình quân đầu người (USD, theo giá cố định 2000) 20
Biểu đồ 8: NIEs: Tăng năng suất lao động (Năm 2000 = 1) 21
Biều đồ 9: Đông Nam Á: tăng trưởng GDP bình quân đầu người (USD, theo giá năm 2000) 27
Biểu đồ 10: Đông Nam Á: Tỷ trọng giá trị gia tăng của ngành chế tạo (% GDP) 28
Biểu đồ 11: Đông Nam Á: Tăng năng suất lao động (Năm 2000 = 1) 29
Biểu đồ 12: Trung Quốc và Ấn Độ: Tăng trưởng GDP bình quân đầu người (2000 USD) 38
Biểu đồ 13: Trung Quốc và Ấn Độ: Tăng năng suất Lao động (Năm 2000=1) 38
Biểu đồ 14: Cơ cấu GDP và cơ cấu việc làm 63
Biểu đồ 15: Độ co giãn của việc làm theo tăng trưởng của Việt Nam 67
Biểu đồ 16: Độ co giãn của việc làm theo lao động ở Việt Nam theo ngành 67
Biểu đồ 17: Số năm đến trường theo nước 73
Biểu đồ 18: Các xu thế về số năm đến trường (năm gốc theo nước) 73
Biểu đồ 19: Năng suất lao động theo ngành (triệu VND/lao động, giá cố định năm 1994) 75
Biểu đồ 20: Năng suất lao động theo hình thức sở hữu (triệu VND/lao động, giá cố định năm
1994) 75
Biểu đồ 21: Tốc độ tăng năng suất lao động theo ngành 77
Biểu đồ 22: Tốc độ tăng năng suất lao động theo hình thức sở hữu 77
Biểu đồ 23: Tiền lương theo giờ ở Việt Nam đang tăng lên (‘000 VND) 80
Biểu đồ 24: Chênh lệch về lương đang dãn ra (tỷ số tiền lương trung bình giữa các trình độ
giáo dục khác nhau, mẫu số là không có bằng cấp hoặc trình độ tiểu học 80
Biểu đồ 25: Bất bình đẳng về tiền lương đang thay đổi tại Việt Nam 81
Biểu đồ 26: Bất bình đẳng về tiền lương đang thay đổi tại Việt Nam (tiếp theo) 81
Biểu đồ 27: Chẩn đoán tăng trưởng việc làm tại Việt Nam 88
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Điều khoản tham chiếu 124
Phụ lục 2: Phỏng vấn của phái đoàn khởi động 129
Phụ lục 2: Phỏng vấn của phái đoàn khởi động 129
Phụ lục 3: So sánh mức sống tại Việt Nam và một số quốc gia 130
Phụ lục 4: Các ví dụ cụ thể 132
CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADB Ngân hàng Phát triển Châu Á
AGE Cân bằng tổng quát ứng dụng
APO Tổ chức Năng suất Châu Á
C
IEM Viện Quản lý Kinh tế Trung ương
CPI Chỉ số giá tiêu dùng
DSI Viện Chiến lược Phát triển
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GSO Tổng cục Thống kê
HCMC Thành phố Hồ Chí Minh
HDI Chỉ số phát triển con người
M
OLISA Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
NIE Các nền kinh tế mới công nghiệp hóa
SE Đông Nam
SEA Đông Nam Á
SEDS Chiến lược phát triển kinh tế xã hội
SME Doanh nghiệp nhỏ và vừa
SOE Doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước
TAF Quỹ Châu Á
TFP Năng suất các yếu tố tổng hợp
TOR Điều khoản tham chiếu
TVE Doanh nghiệp hương trấn
U
N Liên Hợp Quốc
UNDP Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
VLSS Điều tra mức sống Việt Nam
i
TÓM TẮT
Trong giai đoạn 2011-20, Việt Nam sẽ bước vào thập niên tăng trưởng thứ ba
dựa trên cơ sở tái hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam, vào những năm
90 được xếp hạng là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới, hiện đang
hướng tới trở thành một nền kinh tế có thu nhập trung bình, có bước nhảy vọt
hơn hẳn nhiều nước khác trong qúa trình này. Hai thập niên tăng trưởng mạnh
mẽ với một tốc độ mà rất ít nước thậm chí cả những nước ở khu vực Đông Nam
Á
theo kịp, đã giúp giảm mạnh tỷ lệ đói nghèo, từ mức 2/3 dân số xuống dưới
1/5. Tuổi thọ đã tăng lên, và tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và các chỉ tiêu cơ bản khác
về y tế và phúc lợi đã cải thiện đáng kể. Nền kinh tế đã chuyển đổi nhờ sự phát
triển từ một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, nông thôn và công nghệ
thấp sang một nền kinh tế thị trường hỗn hợp với các thành phố phát triển sôi
động, các ngành công nghiệp có tính đa dạng cao và mạng lưới thông tin liên lạc
tiên tiến. Một thập niên trước đây, thương mại quốc tế hiếm khi có tác động tới
sản xuất và phân bổ nguồn lực chứ chưa nói tới cuộc sống hàng ngày; ngày nay
nền kinh tế toàn cầu đang hiện diện và có ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực.
Tuy nhiên, với tất cả những thay đổi này, của cải làm ra của Việt Nam ngày nay
vẫn còn dựa trên cơ sở hai nguồn lực chính: Lao động và đất đai. Thặng dư kinh
tế có được từ việc sử dụng các yếu tố sản xuất này đã tạo ra tiết kiệm và đầu tư,
làm tăng tích lũy nội bộ và thu hút đầu tư nước ngoài. Tỷ lệ thanh niên Việt
N
am tốt nghiệp trung học, cao đẳng và các chương trình dạy nghề cao hơn chưa
từng thấy. Toàn cầu hóa đã đem lại sự chuyển giao công nghệ và liên kết nền
kinh tế này với các mạng lưới thương mại và thông tin toàn cầu, và tất cả những
điều này đã làm tăng mạnh năng suất của các nguồn lực trong nước. Nhưng đầu
tư vào tay nghề, công nghiệp và đổi mới phải mất nhiều năm mới đơm hoa kết
trái. So sánh với phần lớn những nước láng giềng của mình tại Đông và Đông
Nam Á, đến năm 2010 Việt Nam mới thực hiện được vài bước đi ban đầu trên
con đường này. Sự thịnh vượng ngày càng tăng của đại đa số người lao động
Việt Nam ngày nay sẽ phần lớn phụ thuộc vào việc ứng dụng có hiệu quả và
mang tính năng động các nguồn lực lao động, đất đai và các nguồn tài nguyên
thiên nhiên khác để đạt được hiệu quả kinh tế lớn nhất.
Trong nỗ lực này, những người nông dân, người lao động và các doanh nhân
Việt Nam sẽ dựa nhiều vào sự hỗ trợ và khuyến khích của nhà nước Việt Nam.
Tăng trưởng và toàn cầu hóa làm tăng năng suất của lao động và đất đai qua việc
ii
sử dụng chúng như hiện tại, nhưng đồng thời cũng qua việc ứng dụng chúng
theo cách mới và có hiệu quả hơn nữa. Nhưng hạn chế lớn nhất đối với tăng
trưởng – sự khan hiếm về nguồn vốn và kỹ năng cần thiết để tăng sản lượng
bình quân đầu lao động và sản lượng bình quân trên một ha đất – không thể
được giải quyết một cách đầy đủ bởi chỉ riêng khu vực tư nhân Có nhiều lĩnh
vực mà trong đó những lợi ích về mặt xã hội có được từ các khoản đầu tư cao
hơn lợi ích tư, và do vậy sẽ không được cung cấp đầy đủ nếu thiếu vắng các
h
ành động của nhà nước. Những lĩnh vực này bao gồm nhiều loại hình hàng hóa
công cộng như thủy nông và giáo dục, và bối cảnh thể chế mà trong có các giao
dịch thị trường có thể được thực hiện. Nhà nước cũng có nghĩa vụ về mặt xã hội
để bảo đảm rằng lợi ích của tăng trưởng sẽ đến được những người nghèo nhất và
được phân phối cho toàn thể dân cư. Về mặt lý tưởng mà nói, những mục tiêu
tăng trưởng và công bằng này phải đạt được thông qua các chiến lược phát triển
dài hạn và những phản ứng ngắn hạn của nhà nước trước những cú sốc từ nền
kinh tế thế giới. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, một chiến
lược lần thứ ba kể từ năm 1991 dự định sẽ tạo ra một lộ trình cho sự hỗ trợ đó.
Chúng tôi rất vui khi có thể đóng góp vào quá trình soạn thảo SEDS này thông
qua nghiên cứu và phân tích của mình về lao động, việc làm và đô thị hóa tại
Việt Nam.
Báo cáo này, về lao động, sẽ giải quyết những vấn đề về việc huy động và sử
dụng một trong những nguồn lực sản xuất chính của Việt Nam. Báo cáo này
được soạn thảo song hành với một báo cáo nghiên cứu về phát triển nông nghiệp
v
à nông thôn, cũng để hỗ trợ cho quá trình quá trình xây dựng SEDS này. Báo
cáo đó sẽ đề cập tới t những vấn đề liên quan tới việc sử dụng một nguồn lực sản
xuất chính nữa, đó là đất đai. Bằng việc so sánh kinh nghiệm của Việt Nam với
những nước láng giềng trong khu vực và bằng việc đánh giá các bối cảnh chính
sách hiện tại và trong tương lai, mỗi báo cáo nghiên cứu đều cố gắng xác định
những chiến lược thành công và đề xuất phương cách mà theo đó nguồn lực hiện
có của một nước có thể được sử dụng để đem lại lợi ích lớn nhất cho các thế hệ
hiện tại và tương lai.
Các bài học từ các kinh nghiệm mang tính so sánh
Một phần lớn trong báo cáo này được dành ra để đánh giá những kinh nghiệm
của khu vực mà phù hợp với trường hợp của Việt Nam. Chúng tôi lưu ý rằng có
sự khác biệt đáng kể về những điều kiện ban đầu và những điều kiện mang tính
iii
lịch sử giữa các nước mà sẽ làm cho việc so sánh trực tiếp trở nên phức tạp.
Chúng tôi đã quan sát thấy những mô hình chung về chính sách và kết quả đạt
được tại các nền kinh tế châu Á thành công và rút ra 5 đặc điểm chung cho phép
các nước đó phát triển mà vẫn bảo đảm được sự bnh đẳng:
1. Các nền kinh tế thành công ban đầu tập trung vào các ngành hướng về xuất
khẩu, thâm dụng lao động, những ngành đảm bảo tăng việc làm nhanh và duy
trì được sự cân bằng giữa tăng việc làm với tăng năng suất.
N
hững ngoại lệ (đương nhiên là có ngoại lệ) của nhận xét này là (1) các ngành
sử dụng tài nguyên thiên nhiên ở Đông Nam Á, nơi mà các ngành công nghiệp
khai khoáng, lâm nghiệp và dầu khí thâm dụng vốn đã đóng góp quan trọng vào
tăng trưởng kinh tế, và (2) Hàn Quốc, nơi mà sự kiểm soát hoàn toàn của chính
phủ đối với thị trường vốn và các rào cản bảo hộ cao đối với công nghiệp đã
giúp chiến lược công nghiệp hóa trở nên khả thi trong những năm 60 và 70. Tuy
nhiên, những điều kiện giúp cho chiến lược của Hàn Quốc có tính khả thi đó
hiện nay không còn tồn tại với bất kỳ nước nào nữa. Nhìn chung, các nền kinh tế
mới công nghiệp hóa (NIEs) đã đạt được tốc độ tăng sản lượng và việc làm
nhanh thông qua các ngành thâm dụng lao động trong khi vẫn dựa vào lao động
có tay nghề để đảm bảo tăng năng suất trong dài hạn, nhờ đó tìm ra được sự cân
bằng giữa tăng việc làm và tăng năng suất (Islam 2009). Trung Quốc và Ấn Độ
(và cả Việt Nam) đã phát triển với tốc độ rất cao, tuy nhiên mức tăng cầu lao
động không đáp ứng được mức tăng cung. Bởi vậy các yếu tố sản xuất chứ
k
hông phải tăng sản lượng đã hạn chế việc làm tại những nước này. Các nghiên
cứu từ trước đến nay đã xác định được ba yếu tố là: chú trọng sử dụng nhiều
vốn trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển trong khi dư thừa lao động là rất
nghiêm trọng; cơ chế ưu đãi không tạo thuận lợi cho các ngành thâm dụng lao
động; và thất bại trong việc thúc đẩy dịch chuyển lao động. Những sai lầm về
chính sách này của Trung Quốc và Ấn Độ đã mang lại những bài học quan trọng
cho Việt Nam.
2. Nguồn cung lao động có trình độ giáo dục và tay nghề phải bắt kịp hoặc
thậm chí đi trước cầu lao động nhằm tránh tăng trưởng chậm lại và sự gia tăng
bất bình đẳng về tiền lương
Song song với sự tăng mạnh về tiền lương nói chung, chênh lệch về lương theo
ngành, trình độ giáo dục, giới tính hoặc độ tuổi đã tăng đáng kể tại các nền kinh
tế mới công nghiệp hóa (NIEs), đặc biệt là Hàn Quốc và Đài Loan (Okunishi
iv
1997). Điều này là nhờ sự thành công trong phát triển nguồn nhân lực và các
chương trình đào tạo nghề và giáo dục của NIEs. Những chương trình này đã đạt
được hai mục tiêu. Thứ nhất, những chương trình này đã làm tăng nguồn cung
lao động có tay nghề, tránh được bất bình đẳng ngày càng tăng về tiền lương do
tình trạng khan hiếm lao động có tay nghề. Thứ hai, những chương trình này đã
giúp nâng cao trình độ tay nghề của công nhân, làm tăng năng suất của họ so với
nhân viên văn phòng. Okunishi (1997) giải thích rằng các nền kinh tế mới công
n
ghiệp hóa (NIEs) đã trở nên phụ thuộc nhiều hơn vào các sản phẩm có chất
lượng chứ không phải là các sản phẩm giá rẻ, những cải thiện về năng suất lao
động của công nhân đã giúp thu hẹp chênh lệch về tiền lương.
3. Các chính sách về thị trường lao động đã khuyến khích sự dịch chuyển lao
động giữa các vùng và ngành và duy trì tính linh hoạt của thị trường lao động
a. Không có những chính sách chỉ bảo vệ một bộ phận nhỏ người lao động
trong khu vực hiện đại
b. Việc hạn chế di cư trong nước chỉ ở mức tối thiểu
Một bộ phân lớn dân cư nghèo ở mọi nước đều sống tại những vùng xa xôi, cách
xa trung tâm của tăng trưởng. Để cho họ có thể được chia sẻ lợi ích của tăng
trưởng, họ nên được cho phép tự do di chuyển sang những vùng đang tăng
trưởng và gia nhập vào những khu vực đang phát triển. Các nền kinh tế mới
c
ông nghiệp hóa có xu hướng tạo ra các thị trường lao động linh hoạt hơn; kết
quả là, sự dịch chuyển về lao động giữa các vùng và ngành rất cao, và họ có thể
chuyển nhanh và suôn sẻ qua điểm ngoặt Lewis. Trung Quốc và Ấn Độ có nhiều
rào cản khác nhau đối với dịch chuyển lao động; kết quả là, họ đang gặp nhiều
khó khăn trong việc hấp thụ lao động dư thừa và tình trạng bất bình đẳng đang
tăng lên.
4. Sự cân bằng giữa các doanh nghiệp có quy mô và năng suất lao động khác
nhau
Nếu chỉ để cho các lực lượng thị trường quyết định nền kinh tế, thì các doanh
nghiệp nhỏ có lẽ sẽ không thể tăng trưởng nhanh được. Việc phân phối thu nhập
không công bằng thường nảy sinh từ một sự thật là một nhóm nhỏ những người
lao động tập trung tại một số ít các doanh nghiệp lớn có năng suất lao động rất
cao và do đó là mức lương cũng rất cao, trong khi đa số những người lao động
c
òn lại làm việc trong một số lượng lớn các doanh nghiệp nhỏ có năng suất lao
v
động rất thấp và do đó có mức lương rất thấp (Richards 2001). Điều này có thể
thấy ở Ấn Độ nơi mà việc phân bổ việc làm thường được biết đến là “thiếu tầng
lớp trung lưu”. Bên cạnh đó, Đài Loan và Hồng Kông là những ví dụ về phân
phối đồng đều theo quy mô và năng suất lao động và do vậy có sự phân phối
bình đẳng về thu nhập.
Hàn Quốc nổi tiếng về sự hỗ trợ của Chính phủ đối với các doanh nghiệp và tập
đoàn có quy mô rất lớn, và điều đó có thể đóng vai trò quan trọng trong việc
p
hát triển các sản phẩm mới, thâm nhập các thị trường mới, và chiếm lĩnh được
nhiều thị phần xuất khẩu. Nhưng chính sách này đã bắt đầu thay đổi từ những
năm 80 khi mà nhu cầu thâm nhập và chiếm lĩnh các thị trường mới và phát
triển các sản phẩm mới đã trở nên ít cấp thiết hơn so với nhu cầu duy trì khả
năng cạnh tranh: Các doanh nghiệp lớn gặp phải nhiều vấn đề về chi phí lao
động và quản lý cao, do vậy các doanh nghiệp nhỏ cần tham gia vào. Hệ số bất
bình đẳng của Hàn Quốc đạt mức cao nhất vào cuối những năm 70 khi mà đất
nước này đang ủng hộ cho các doanh nghiệp lớn, nhưng sau đó hệ số này đã
giảm mạnh khi họ điều chỉnh chính sách này (Richards 2001).
5. Đầu tư thích đáng vào cơ sở hạ tầng của các vùng đô thị cho phép khu vực
thành thị tăng trưởng nhanh và hấp thụ được lao động dư thừa từ khu vực nông
thôn
Nếu không có các chính sách phân biệt đối xử ở mức cao của chính phủ, thì các
n
gành (không phải là những ngành phụ thuộc vào một nguồn lực cố định như
khoáng sản) sẽ thu được lợi nhuận cao hơn khi được đặt ở gần nhau, gần các nhà
cung cấp các dịch vụ như ngân hàng và tài chính, và gần cảng biển cũng như
những cơ sở hạ tầng quan trọng khác. Các thành phố cho phép các doanh nghiệp
tận dụng được lợi thế kinh tế theo quy mô như vậy. Việc đầu tư thấp vào phát
triển đô thị sẽ làm tăng chi phí của các ngành và tạo ra những gánh nặng khác
đối với tăng trưởng, và cũng tạo ra khả năng xung đột về kinh tế và xã hội. Tóm
lại, thúc đẩy công nghiệp hóa đòi hỏi phải hỗ trợ phát triển đô thị. Điều này đặt
trách nhiệm lên vai Nhà nước là phải đảm bảo rằng các thành phố có thể phát
triển một cách có trật tự và hiệu quả. Điều này không có nghĩa là phát triển dựa
vào nông thôn là không quan trọng, mà là phải có những điều kiện tiên quyết để
quá trình công nghiệp hóa nông thôn diễn ra một cách hiệu quả về mặt kinh tế
mà không cần những khoản trợ cấp lớn. Việc di chuyển ngành chế tạo của Mỹ
(
chứ không phải là ngành chế biến các nông sản và các sản phẩm từ tài nguyên
vi
thiên nhiên) ra khỏi các thành phố lớn đã không được bắt đầu một cách nghiêm
túc cho đến khi xây dựng được hệ thống đường cao tốc giữa các tiểu bang. Hệ
thống này cùng với một mạng lưới đường sắt, đường sông, và đường hàng
không dày đặc làm giảm chi phí vận tải và thông tin liên lạc đủ để khiến cho
việc di chuyển địa điểm vẫn có thể đem lại lợi nhuận.
Các xu thế trong nền kinh tế khu vực và toàn cầu
Xem xét những xu thế hiện tại trong nền kinh tế khu vực và toàn cầu, chúng tôi
n
hấn mạnh vai trò của nền kinh tế lớn và đang phát triển nhanh chóng của Trung
Quốc mà đang khiến cho dư cung lao động toàn cầu tăng mạnh. Đa số các nền
kinh tế đang phát triển châu Á đều bị cuốn hút vào mạng lưới sản xuất quốc tế
mà Trung Quốc là trung tâm, dẫn đến ở một số nước đã có những thay đổi lớn
về cơ cấu sản xuất cũng như khối lượng và xu hướng thương mại quốc tế của
mình (Lall và Albaladejo, 2004; Coxhead, 2007). Sự định hướng lại về phía
Trung Quốc này đã mang lại ba tác động lớn theo ngành. Thứ nhất, ở các nước
giàu, các nhà sản xuất trong ngành chế tạo thâm dụng lao động phải đối mặt với
những áp lực cạnh tranh khốc liệt. Thứ hai, các ngành xuất khẩu tài nguyên
thiên nhiên đã được hưởng lợi nhờ sự bùng nổ giá cả hàng hóa liên tục (bất chấp
những biến động gần đây). Thứ ba, các doanh nghiệp chế tạo những hàng hóa
đòi hỏi phải có tay nghề như linh kiện máy tính, điện thoại và các thiết bị điện tử
khác đã tìm thấy những cơ hội phát triển thông qua việc tham gia vào quá trình
được gọi là “trao đổi mua bán theo phân đoạn” (nghĩa là trao đổi mua bán các
mặt hàng chế tạo đã hoàn thiện một phần) với Trung Quốc .
T
rong khi Việt Nam được lợi từ việc xuất khẩu các mặt hàng sử dụng nhiều tài
nguyên, thì ngành chế tạo thâm dụng lao động của Việt Nam đang phải đối mặt
với sự cạnh tranh gay gắt từ Trung Quốc. Tác động tới sự phát triển trong dài
hạn của Việt Nam là gì. Kinh nghiệm của khu vực, đặc biệt là của Inđônêxia sẽ
cung cấp những thêm gợi ý cho các triển vọng tương lai khác nhau của nền kinh
tế Việt Nam, và một lần nữa thu hút sự chú ý vào những lựa chọn chính sách mà
có thể định hướng đường đi của nền kinh tế này. Giống như phần lớn các nền
kinh tế có thu nhập trung bình khác (trừ Trung Quốc), tốc độ tăng xuất khẩu các
sản phẩm đòi hỏi tay nghề trong tổng giá trị xuất khẩu của Inđônêxia giảm đi.
Trong những năm 90, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa được xếp vào mục “công
nghệ cao” của Inđônêxia trong Các chỉ báo phát triển thế giới tăng từ mức
k
hông đáng kể lên hơn 16% trong tổng giá trị xuất khẩu hàng chế tạo - và phần
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét