Ngoài số vốn Nhà nước đầu tư, DNNN được quyền huy động vốn
dưới hình thức như phát hành trái phiếu, vay vốn, nhận vốn góp liên kết
liên doanh và các hình thức sở hữu của DN và phải tuân theo các quy định
của pháp luật hiện hành.
Việc phân phối lợi nhuận sau thuế (lợi nhuận sau khi nộp thuế thu
nhập doanh nghiệp) được thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh
trong phạm vi số vốn doanh nghiệp quản lý. Như vậy, có thể thấy doanh
nghiệp nhà nước chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của
doanh nghiệp.
1.2.1.2. Công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là một công ty trong đó:
- Các thành viên cùng góp vốn dưới hình thức cổ phần để hoạt động.
- Số vốn điều lệđược chia thành nhiều phần bằng nhau được gọi là cổ
phần
- Cổđông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
- Cổđông có quyền tự do chuyện nhượng cổ phần của mình cho
người khác, trừ trường hợp có quy định của pháp luật.
- Cổđông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổđộng tối thiểu là 3
và không hạn chế số lượng tối đa.
Hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần các đặc điểm:
+ Công ty cổ phần là một thực thể pháp lý có tư cách pháp nhân, các
thành viên góp vốn vào công ty dưới hình thức mua cổ phiếu. Trong quá
trình hoạt động, công ty có thể phát hành thêm cổ phiếu mới để huy động
thêm vốn (nếu cóđủ các tiêu chuẩn, điều kiện theo luật định) điều đó tạo
cho công ty có thể dễ dàng tăng thêm vốn chủ sở hữu trong kinh doanh.
+ Các chủ sở hữu có thể chuyển quyền sở hữu về tài sản của mình
cho người khác mà không làm gián đoạn các hoạt động kinh doanh của
5
công ty và có quyền hưởng lợi tức cổ phần, quyền biểu quyết, quyền tham
dự và bầu Hội đồng quản trị.
+ Quyền phân chia lợi tức sau thuế thuộc các thành viên của công ty
quyết định.
+ Chủ sở hữu của công ty chỉ chịu TNHH trên phần vốn mà họ góp
vào công ty.
1.2.1.3.Công ty trách nhiệm hữu hạn:
Theo Luật doanh nghiệp hiện hành ở nước ta, có hai dạng công ty
trách nhiệm hữu hạn: Công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên trở
lên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
- Công ty TNHH (có hai thành viên trở lên) là doanh nghiệp trong
đó:
+ Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài
sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vốn vào
doanh nghiệp.
+ Phần vốn góp của các thành viên chỉđược chuyển nhượng theo quy
định của pháp luật (theo quy định tại điều 32 – Luật doanh nghiệp).
+ Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng thành viên theo
quy định của pháp luật.
Thành viên phải góp vốn đầy đủ vàđúng hạn nhưđã cam kết. Ngoài
phần vốn góp vốn của thành viên, công ty có quyền lựa chọn hình thức và
cách thức huy động vốn theo quy định của pháp luật nhưng không được
quyền phát hành cổ phiếu.
Thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn có quyền chuyển nhượng
một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp, nhưng trước hết phải chào bán phần
vốn đó cho tất cả các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn
góp của họ trong công ty. Chỉđược chuyển nhượng có người không phải là
thành viên nếu các thành viên còn lại của công ty không mua hoặc không
mua hết.
6
Thành viên có quyền yêu cầu công ty mua lại phần vốn góp của
mình, nếu thành viên đó bỏ phiếu chống hoặc phản đối bằng văn bản đối
với quyết định của Hội đồng thành viên về các vấn đề:
• Tổ chức lại công ty
• Các trường hợp khác quy định tại điều lệ công ty.
Trong quá trình hoạt động, theo quyết định của Hội đồng thành viên,
công ty có thể tăng hoặc giảm vốn theo qui định của pháp luật.
Hội đồng thành viên của công ty quyết định phương án sử dụng và
phân chia lợi nhuận hoặc phương án xử lý lỗ của công ty.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: Là doanh nghiệp do
một tổ chức làm chủ sở hữu, chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ
và các nghĩa vụ về tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn điều lệ
của doanh nghiệp.
Công ty có quyền lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn, tuy
nhiên công ty không được quyền phát hành cổ phiếu.
Chủ sở hữu công ty không trực tiếp rút một phần hoặc toàn bộ số
vốn đã góp vào công ty, chỉđược quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng
một phần hoặc toàn bộ số vốn cho tổ chức hoặc cá nhân khác.
Chủ sở hữu công ty là người quyết định sử dụng lợi nhuận sau thuế.
1.2.1.4. Doanh nghiệp tư nhân:
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của
doanh nghiệp.
Như vậy, chủ doanh nghiệp tư nhân là người bỏ vốn đầu tư của mình
và cũng có thể huy động thêm vốn từ bên ngoài dưới hình thức đi vay.
Trong khuôn khổ của luật pháp, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tự do
kinh doanh và chủđộng trong mọi hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên loại
hình doanh nghiệp này không được phép phát hành bất kỳ loại chứng
khoán nào để huy động vốn trên thị trường. Qua đó cho thấy nguồn vốn của
7
doanh nghiệp tư nhân là hạn hẹp, loại hình doanh nghiệp này thường thích
hợp với kinh doanh quy mô nhỏ.
Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền quyết định đối với tất cả các
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, có quyền cho thuê toàn bộ doanh
nghiệp của mình, có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người khác
hoặc có quyền tạm ngừng hoạt động kinh doanh. Việc thực hiện cho thuê
hay bán doanh nghiệp hoặc tạm ngừng hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp phải tuân thủ các yêu cầu của của pháp luật hiện hành.
Phần thu nhập sau thuế thuộc quyền sở hữu và sử dụng của chủ
doanh nghiệp.
Trong hoạt động kinh doanh, chủ doanh nghiệp tư nhân tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình. Điều đó cũng có nghĩa là về mặt tài
chính chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ
của doanh nghiệp. Đây cũng là một điều bất lợi của loại hình doanh nghiệp
này.
1.2.1.5. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định các hình thức đầu
tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam gồm có doanh nghiệp liên doanh
và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài đầu tư một phần hoặc toàn bộ vốn nhằm thực hiện các mục tiêu
chung là tìm kiếm lợi nhuận, có tư cách pháp nhân, tổ chức và hoạt động
theo quy chế của công ty trách nhiệm hữu hạn và tuân theo quy định của
pháp luật Việt Nam.
Doanh nghiệp liên doanh cóđặc điểm: Phần vốn góp của bên ngoài
vào vốn pháp định không hạn chếở mức tối đa nhưng lại hạn chếở mức tối
thiểu, tức là không được thấp hơn 30% của vốn pháp định, trừ những
trường hợp do Chính phủ quy định. Việc góp vốn của các bên tham gia có
thể bằng tiền nước ngoài, tiền Việt Nam, tài sản hiện vật, giá trị quyền sở
hữu công nghiệp, giá trị quyền sử dụng đất, các nguồn tài nguyên thiên
8
nhiên theo quy định của pháp luật tại Việt Nam (có quy định cụ thể cho
mỗi bên nước ngoài và Việt Nam).
Các bên trong doanh nghiệp liên doanh có quyền chuyển nhượng giá
trị phần vốn của mình, nhưng phải ưu tiên chuyển nhượng cho các bên
trong liên doanh.
Lợi nhuận sau thuế thu nhập của doanh nghiệp liên doanh được trích
lập quỹ dự phòng tài chính, quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng.
Việc các nhàđầu tư nước ngoài có lợi nhuận và muốn chuyển số lợi
nhuận đó về nước họ thì phải nộp một khoản thuế về việc chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài tuỳ thuộc vào mức vốn góp của nhàđầu tư nước ngoài
vào vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh.
Doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài: là doanh nghiệp do
nhàđầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn thành lập tại Việt Nam. Tổ chức và
hoạt động của doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài do nhàđầu tư
nước ngoài quy định trên cơ sở quy chế pháp lý về doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
1.2.2. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành kinh doanh:
Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành kinh doanh cóảnh hưởng
không nhỏ tới doanh nghiệp. Mỗi ngành kinh doanh có những đặc điểm về
mặt kinh tế và kỹ thuật khác nhau. Những ảnh hưởng đó thể hiện:
1.2.2.1. Ảnh hưởng của tính chất ngành kinh doanh:
Ảnh hưởng này thể hiện trong thành phần cơ cấu vốn kinh doanh của
doanh nghiệp, ảnh hưởng tới quy mô của vốn sản xuất – kinh doanh, cũng
như tỷ lệ thích ứng để hình thành và sử dụng chúng, do đó cóảnh hưởng tới
tốc độ luân chuyển vốn (vốn cốđịnh và vốn lưu động), ảnh hưởng tới
phương pháp đầu tư, thể thức thanh toán chi trả.
1.2.2.2. Ảnh hưởng của tính thời vụ và chu kỳ sản xuất - kinh doanh
Tính thời vụ và chu kỳ sản xuất cóảnh hưởng trước hết đến nhu cầu
vốn sử dụng và doanh thu tiêu thu sản phẩm. Những doanh nghiệp sản xuất
9
có chu kỳ ngắn thì nhu cầu vốn lưu động giữa các thời kỳ trong năm
thường không có biến động lớn, doanh nghiệp cũng thường xuyên thu được
tiền bán hàng, điều đó giúp cho doanh nghiệp dễđàng đảm bảo sự cân đối
giữa thu và chi bằng tiền, cũng như trong việc tổ chức vàđảm bảo nguồn
vốn cho nhu cầu kinh doanh. Những doanh nghiệp sản xuất ra những loại
sản phẩm có chu kỳ sản xuất dài phải ứng ra một lượng vốn lưu động giữa
các quý trong năm thường có sự biến động lớn, tiền thu về bán hàng cũng
không được đều, tình hình thanh toán, chi trả cũng thường gặp những khó
khăn. Cho nên việc tổ chức đảm bảo nguồn vốn cũng nhưđảm bảo sự cân
đối giữa thu và chi bằng tiền của doanh nghiệp cũng khó khăn hơn.
1.2.2.3. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp:
Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng hoạt động trong một môi trường
kinh doanh nhất định. Môi trường kinh doanh bao gồm tất cả những điều
kiện bên ngoài ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp. Môi trường
kinh doanh có tác động mạnh mẽđến mọi hoạt động của doanh nghiệp
trong đó có hoạt động tài chính.
Dưới đây chủ yếu xem xét tác động của môi trường kinh doanh đến
hoạt động tài chính doanh nghiệp.
- Sựổn định của nền kinh tế:
Sựổn định hay không ổn định của nền kinh tế, của thị trường cóảnh
hưởng trực tiếp tới mức doanh thu của doanh nghiệp, từđóảnh hưởng đến
nhu cầu về vốn kinh doanh. Những tác động của nền kinh tế có thể gây
nên những rủi ro trong kinh doanh mà các nhà tài chính doanh nghiệp phải
lường trước, những rủi ro đóảnh hưởng tới các khoản chi phí vềđầu tư, chi
phí trả lãi hay tiền thuê nhà xưởng, máy móc thiết bị hay việc tìm nguồn
vốn tài trợ.
Nền kinh tếổn định và tăng trưởng tới một tốc độ nào đó thì doanh
nghiệp muốn duy trì và giữ vững vị trí của mình, cũng phải phấn đấu để
phát triển với nhịp độ tương đương. Khi doanh thu tăng lên, sẽđưa đến việc
10
gia tăng tài sản, các nguồn doanh nghiệp và các loại tài sản khác. Khi đó,
các nhà tài chính doanh nghiệp phải tìm nguồn tài trợ cho sự mở rộng sản
xuất, sự tăng tài sản đó.
- Ảnh hưởng của giá cả thị trường, lãi suất và tiền thuế:
Giá cả thị trường, giá cả sản phẩm mà doanh nghiệp tiêu thu cóảnh
hưởng lớn tới doanh thu do đóảnh hưởng lớn tới khả năng tìm kiếm lợi
nhuận. Cơ cấu tài chính của doanh nghiệp cũng bịảnh hưởng nếu có sự thay
đổi về giá cả. Sự tăng, giảm lãi suất và giá cổ phiếu cũng ảnh tới sự tăng
giảm về chi phí tài chính và sự hấp dẫn của các hình thức tài trợ khác nhau.
Mức lãi suất cũng là một yếu tốđo lường khả năng huy động vốn vay. Sự
tăng hay giảm thuế cũng ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình kinh doanh, tới
khả năng tiếp tục đầu tư hay rút khỏi đầu tư.
Tất cả các yếu tốt trên có thểđược các nhà quản lý tài chính doanh
nghiệp sử dụng để phân tích các hình thức tài trợ và xác định thời gian tìm
kiếm các nguồn vốn trên thị trường tài chính.
- Sự cạnh tranh trên thị trường và sự tiến bộ kỹ thuật, công nghệ:
Sự cạnh tranh về sản phẩm đang sản xuất và các sản phẩm tương lai
giữa các doanh nghiệp cóảnh hưởng lớn tới kinh tế, tài chính của doanh
nghiệp và có liên quanh chặt chẽđến khả năng tài trợđể doanh nghiệp tồn
taị và tăng trưởng trong một nền kinh tế luôn luôn biến đổi và người giám
đốc tài chính phải chịu trách nhiệm về việc cho doanh nghiệp hoạt động khi
cần thiết.
Cũng tương tự như vậy, sự tiến bộ kỹ thuật và công nghệđòi hỏi
doanh nghiệp phải ra sức cải tiến kỹ thuật, quản lý, xem xét vàđánh giá lại
toàn bộ tình hình tài chính, khả năng thích ứng với thị trường, từđóđề ra
những chính sách thích hợp cho doanh nghiệp.
- Chính sách kinh tế và tài chính của Nhà nước đối với doanh
nghiệp:
11
Như chính sách khuiyến khích đầu tư, chính sách thuế, chính sách
xuất khẩu, nhập khẩu, chếđộ khấu hao tài sản cốđịnh Đây là những yếu tố
tác động lớn đến các vấn đề tài chính của doanh nghiệp.
- Sự hoạt động của thị trường tài chính và hệ thống các tổ chức
tài chính trung gian:
Hoạt động của doanh nghiệp gắn liền với thị trường tài chính, nơi mà
doanh nghiệp có thể huy động vốn hay đầu tư những khoản tài chính tạm
thời nhàn rỗi. Sự phát triển của thị trường tài chính làm nảy sinh các công
cụ tài chính mới, doanh nghiệp có thể sư dụng để huy động vốn đầu tư.
Chẳng hạn, khi xuất hiện hình thức thuê tài chính, doanh nghiệp có thể
nhờđó giảm bớt được số vốn cần đầu tư hoặc khi hình thành thị trường
chứng khoán, doanh nghiệp có thêm phương tiện để huy động vốn hay đầu
tư vốn Sự phát phát triển và hoạt động có hiệu quả của các tổ chức tài
chính trung gian như ngân hàng thương mại, công ty tài chính, quỹ tín
dụng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp huy động vốn.
Khi xem xét tác động của môi trường kinh doanh, không chỉ xem xét
ở phạm vi trong nước mà cần phân tích đánh giá cả môi trường khu vực và
thế giới, vì biến động về kinh tế - tài chính trong khu vực và trên thế giới
tác động không nhỏđến hoạt động kinh doanh của một nước.
2. Vốn kinh doanh và nguồn hình thành vốn kinh doanh của
doanh nghiệp:
2.1. Vốn kinh doanh:
2.1.1. Khái niệm về vốn kinh doanh:
Để tiến hành bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào, doanh nghiệp
cũng cần phải có vốn. Vốn kinh doanh làđiều kiện tiên quyết cóý nghĩa
quyết định đến quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp được hiểu là số tiền ứng trước về
toàn bộ tài sản hữu hình và tài sản vô hình phục vụ cho sản xuất - kinh
doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích kiếm lời.
12
Khi phân tích hình thái biểu hiện và sự vận động của vốn kinh doanh,
cho thấy những đặc điểm nổi bật sau:
- Vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp là một loại quỹ tiền tệđặc
biệt. Mục tiêu của quỹ làđể phục vụ cho sản xuất - kinh doanh tức là mục
đích tích luỹ, không phải là mục đích tiêu dùng như một vài quỹ khác trong
doanh nghiệp.
- Vốn kinh doanh của doanh nghiệp có trước khi diễn ra hoạt động sản
xuất - kinh doanh.
- Vốn kinh doanh của doanh nghiệp sau khi ứng ra, được sử dụng vào
kinh doanh và sau mỗi chu kỳ hoạt động phải được thu vềđểứng tiếp cho kỳ
hoạt động sau.
- Vốn kinh doanh không thể mất đi. Mất vốn đối với doanh nghiệp
đồng nghĩa với nguy cơ phá sản.
Cần thấy rằng có sự phân biệt giữa tiền và vốn. Thông thường có tiền
sẽ làm nên vốn, nhưng tiền chưa hẳn là vốn. Tiền được gọi là vốn phải
đồng thời thoả mãn những điều kiện sau:
- Một là: Tiền phải đại diện cho một lượng hàng hoá nhất định. Hay
nói cách khác, tiền phải được đảm bảo bằng một lượng tài sản có thực.
- Hai là: Tiền phải được tích tụ và tập trung ở một lượng nhất định. Sự
tích tụ và tập trung lượng tiền đến hạn độ nào đó mới làm cho nóđủ sức
đểđầu tư vào một dựán kinh doanh nhất định.
- Ba là: Khi tiền đủ lượng phải được vận động nhằm mục đích kiếm
lời. Cách thức vận động của tiền là doanh nghiệp phương thức đầu tư kinh
doanh quyết định. Phương thức đầu tư của một doanh nghiệp, có thể bao
gồm:
+ Đối với đầu tư cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, công thức vận
động của vốn như sau:
TLSX
T - H SX H’ - T’
13
SLĐ
+ Đối với đầu tư cho lĩnh vực thương mại, công thức đơn giản hơn:
T - H - T’
+ Đối với đầu tư mua trái phiếu hoặc cổ phiếu, góp vốn liên doanh thì
công thức vận động là: T - T’
2.1.2. Đặc trưng của vốn kinh doanh:
- Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là số tiền ứng trước cho hoạt động
sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Tất nhiên muốn cóđược lượng vốn
đó, các doanh nghiệp phải chủđộng khai thác, thu hút vốn trên thị trường.
- Mục đích vận động của tiền vốn là sinh lời. Nghĩa là vốn ứng trước
cho hoạt động sản xuất - kinh doanh phải được thu hồi về sau mỗi chu kỳ
sản xuất, tiền vốn thu hồi về phải lớn hơn số vốn đã bỏ ra.
2.2. Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp
2.2.1. Căn cứ vào mối quan hệ sở hữu về vốn
2.2.1.1. Nguồn vốn chủ sở hữu
Là phần vốn thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp, doanh nghiệp
có quyền chiếm hữu, sử dụng vàđịnh đoạn, bao gồm: vốn điều lệ, vốn tự bổ
sung, vốn doanh nghiệp nhà nước tài trợ (nếu có). Trong đó:
- Nguồn vốn điều lệ: Trong các doanh nghiệp tư nhân vốn đầu tư ban
đầu do chủ sở hữu đầu tư. Trong các doanh nghiệp Nhà nước vốn đầu tư
ban đầu do Nhà nước cấp một phần (hoặc toàn bộ)
- Nguồn vốn tự bổ sung: bao gồm tất cả các nguồn vốn mà doanh
nghiệp tự bổ sung từ nội bộ doanh nghiệp như từ lợi nhuận để lại, quỹ khấu
hao, các quỹ dự phòng tài chính và quỹđầu tư phát triển.
Nguồn vốn chủ sở hữu là một nguồn vốn quan trọng và có tính ổn
định cao, thể hiện quyền tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Tỷ trọng
của nguồn vốn này trong cơcấu nguồn vốn càng lớn, sựđộc lập về tài chính
của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét