Thứ Ba, 11 tháng 2, 2014

Cơ sở tồn tại của nền kinh tế thị trường và giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Qua 15 năm đổi mới thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên CNXH và Chiến lược ổn định đất nước 10 năm ( 1991-
2000) dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn Đảng và toàn dân ta đã vượt qua
mọi khó khăn, thử thách đạt được những thành tựu to lớn và rất quan
trọng.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là nội dung cốt lõi của chính
sách đổi mới toàn diện nền kinh tế Việt nam được chính thức bắt đầu kể
từ Đại hội lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt nam (1986). Với mục tiêu hàng
đầu là giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong
và bên ngoài cho công nghiệp hoá hiện đại hoá, nâng cao hiệu lực kinh tế
xã hội. Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN phải là ”quá trình
thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân
dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương xoá bỏ áp bức, bất công,
tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”.
( Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, NXB sự
thật, Hà Nội).
Kinh tế thị trường phải được nghiên cứu từng bước, qua từng giai
đoạn cụ thể để có thể rút ra được tính quy luật của nó, để nắm bắt nó.
Vì thế đề tài “Cơ sở tồn tại của nền kinh tế thị trường và giải
pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta ” là vô
cùng thiết thực và cần thiết, qua đó cộng với niềm thích thú, sự học hỏi
của mình (sinh viên kinh tế) em thấy đề tài này là hoàn toàn phù hợp và
thỏa mãn với mình.
Đây là tiểu luận đầu tay của em nên chắc chắn không thể tránh
khỏi những sai sót em rất mong nhận được sự góp ý nhiệt tình của thầy
giáo để những lần sau em sẽ làm tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
11
2

NỘI DUNG
I. Sự cần thiết khách quan phải phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta.
1. Kinh tế thị trường và những đặc trưng của nó.
1.1 Thế nào là kinh tế thị trường.
Về phương diện kinh tế có thể khái quát rằng, lịch sử phát triển của
sản xuất và đới sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ
chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và
phân công lao động xã hôị, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó
là: thời đại kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp và thời đại kinh tế hàng hoá
mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng, là đặc trưng của
chủ nghĩa tư bản. Đó là thành tựu chung của nền văn minh nhân loại, nó
đã từng tồn tại và phát triển qua những phương thức sản xuất khác nhau.
Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá, cũng
đã trải qua giai đoạn phát triển. Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn chuyển từ
kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường. Giai đoạn thứ hai là
giai đoạn phát triển kinh tế thị trường tự do. Đặc trưng quan trọng của
giai đoạn này là sự phát triển kinh tế diễn ra theo tinh thần tự do Nhà
nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn
kinh tế thị trường hiện đại. Đặc trưng của giai đoạn này là Nhà nước can
thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài.
Sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường thông qua việc xây
dựng các hình thức sở hữu Nhà nước, các chương trình khuyến khích đầu
tư và tiêu dùng, cùng với việc sử dụng các công cụ kinh tế như tài chính,
tín dụng, tiền tệ, … để điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Sự phối hợp
giữa Chính phủ và thị trường trong một nền kinh tế hỗn hợp nhằm bảo
22
3
đảm sự phát triển có hiệu quả của những nước có mức tăng trưởng kinh tế
nhanh.
Mặc dù sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hoá tự phát sẽ
“hàng ngày, hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản” (nói theo cách nói của
VI.Lê-nin) và sự phát triển của kinh tế thị trường trong lịch sử diễn ra
đồng thời với sự hình thành và phát triển cuả chủ nghĩa tư bản, nhưng
tuyệt nhiên kinh tế thị trường không phải là một chế độ kinh tế - xã hội.
Kinh tế thị trường là hình thức và phương pháp vận hành kinh tế. Các quy
luật của thị trường chi phối việc phân bổ các tài nguyên, quy định sản
xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai. Đây là một kiểu tổ
chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự
phát triển lực lượng sản xuất. Nó là phương thức sinh hoạt kinh tế của sự
phát triển. Sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường theo quy luật giá trị đòi
hỏi các chủ thể sản xuất kinh doanh không ngừng đổi mới ứng dụng tiến
bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, mở
rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Quá trình hình thành và phát triển kinh
tế thị trường là quá trình mở rộng phân công lao động xã hội phát triển
khoa học công nghệ mới và ứng dụng chúng vào thực tiễn sản xuất kinh
doanh. Sự phát triên của kinh tế thị trường gắn liền với quá trình phát
triển của nền văn minh nhân loại, của khoa học kỹ thuật, của lực lượng
sản xuất. Nhiều học giả đã khẳng định rằng: giai đoạn kinh tế hàng hoá
giản đơn gắn liền với nền văn minh nông nghiệp và kỹ thuật thủ công;
giai đoạn kinh tế thị trường tự do gằn liền với nền văn minh công nghiệp
và kỹ thuật cơ khí; giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại gắn liền với nền
văn minh trí tuệ và kỹ thuật vi đIện tử tin học.
1.2 Những đặc trưng chung của nền kinh tế thị trường.
Do kinh tế thị trường là sự phát triển cao của nền kinh tế hàng hoá
và mọi yếu tố của sản xuất đều được thị trường hoá cho nên kinh tế thị
trường có những đặc trưng chủ yếu sau:
33
4
Một là, tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao, các chủ thể kinh
tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất
kinh doanh của mình, được tự do liên kết, tự do kinh doanh theo luật
định. Kinh tế hàng hoá không bao dung hành vi bao cấp nó đối lập với
bao cấp và đồng nghĩa với tự chủ năng động.
Hai là, hàng hoá trên thị trường rất phong phú, phản ánh trình độ cao
của năng suất lao động xã hội, trình độ phân công lao động xã hội, sự
phát triển của sản xuất và thị trường.
Ba là, giá cả được hình thành ngay trên thị trường, vừa chịu tác động
của quan hệ cạnh tranh, quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ.
Bốn la, cạnh tranh là một tất yếu của nền kinh tế thị trường, có nhiều
hình thức cạnh tranh phong phú vì mục tiêu lợi nhuận.
Năm là, kinh tế thị trường là kinh tế mở.
2. Kinh tế thị trường định hướng XHCN và yêu cầu của nó.
2.1 Thế nào là định hướng XHCN.
Định hướng XHCN trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường đã
được báo cáo chính trị tại Đại hội VIII chỉ rõ vơí các nội dụng sau:
Một là, thực hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần lấy việc giải phóng sức sản xuất động viên tối
đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công cuộc công nghiệp hoá,
hiên đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sông của
nhân dân là mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các
thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh.
Hai là, chủ động đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà
nước, kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã. Kinh tế nhà nước đóng
vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng. Tạo điều
kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh tế tư nhân yên tâm đầu
tư làm ăn lâu dài. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế
nhà nước với các thành phần kinh tế khác cả ở trong và ngoài nước.
44
5
Ba là, xác lập củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao
động trong nền sản xuất xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt
hơn.
Bốn là, thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế làm chủ yếu, đồng thời phân phối dựa
trên mức đóng góp của các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh
doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Thừa nhận sự tồn tại lâu
dài các hình thức thuê mướn lao động nhưng không để biến thành quan
hệ thống trị, dẫn đến sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập phân phối
và phân phối lại hợp lý các thu nhập, khuyến khích làm giầu hợp pháp đi
đôi với xoá đói , giảm nghèo, không để diễn ra chênh lệch quá đáng về
mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cư.
Năm là, tăng cường quản lý vĩ mô của nhà nước khai thác triệt để vai
trò tích cực đi đôi với khắc phục và ngăn ngừa hạn chế những tác động
tiêu cực của cơ chế thị trường. Đảm bảo sự bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ trước pháp luật của mỗi doanh nghiệp và cá nhân không phân
biệt thành phần kinh tế.
Sáu là, giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân
tộc trong quan hệ kinh tế với bên ngoài.
2.2 Những nội dung cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng XHCN. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
có những nội dung cơ bản sau:
- Mục đích của nền kinh tế thị trường là phát triển lực lượng sản xuất,
phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của XHCN, nâng
cao đời sống nhân dân.Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với
55
6
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý, phân
phối.
- Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất
theo định hướng XHCN là thúc đaảy lực lượng sản xuất, cải thiện đời
sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
- Có nhiều hình thức sỡ hữu, nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
trở thành nền tảng vững chắc. Chế độ sở hữu cộng cộng(công hữu) về tư
liệu sản xuất chủ yếu sẽ từng bước được xác lập và chiếm hữu thế tuyệt
đối khi CNXH được xây dựng xong về cơ bản.
- Kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế có sự quản lý của
nhà nước XHCN bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương
pháp quản lý kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản
xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực, bảo vệ lợi
ích người lao động.
- Thực hiện phân phối chủ yếu kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng
thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản
xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội.
- Tăng trưởng kinh tế gắn liền và đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội
ngày càng từng bước phát triển.
- Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá và giáo dục, xây dựng
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ
nghĩa Mác-lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời
sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con
người, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
2.3 Những yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường khác hẳn với nền kinh tế tập trung quan liêu
bao cấp. Nghiên cứu dưới góc độ quân điểm toàn diện chúng ta nhận thấy
66
7
rằng một mặt kinh tế thị trường làm cho cạnh tranh kết thúc đẩy khoa học
phát triển, tiếp thu được những công nghệ và bí quyết mới. Nhưng mặt
khác cũng làm cho hàng loạt các xí nghiệp, doanh nghiệp bị phá sản.
Về mặt tích cực.
Kinh tế thị trường tạo ra được những con người năng động, quyết
đoán có được kinh nghiệm sau những lần cạnh tranh thắng lợi hay thất
bại của mình nhằm.
+ Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nâng cao năng suất lao động xã
hội.
+ Đẩy mạnh quá trình xã hội hoá lực lượng sản xuất.
+ Đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất.
+ Kích thích nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, hàng hoá
dịch vụ dồi dào và luôn được cải tiến.
+ Tăng tính năng động và điều chỉnh của nền kinh tế.
+ Thúc đẩy tiêu dung đổi mới công nghệ.
+ Nâng cao năng lực quản lý.
Về mặt tiêu cực và hạn chế.
+ Phân hoá giầu nghèo- phân hoá giai cấp.
+ Sự phát triển mù quáng của các doanh nghiệp riêng lẻ tất yếu dẫn đến
khủng hoảng chu kỳ, triệt tiêu lẫn nhau và thất nghiệp.
+ Động cơ săn đuổi lợi nhuận tối đa luôn gắn liền với những thủ đoạn
không lành mạnh: đầu cơ, buôn lậu và lối sống duy vật chất xem thường
truyền thống và các chuẩn mực đạo đức xã hội.
+ Giá cả hình thành tự do trên thị trường tự nó không phải lúc nào cũng
phản ánh đúng quan hệ giá trị do: độc quyền của những doanh nghiệp lớn
và nước lớn trong việc khống chế mức lưu thông và giá cả, đầu cơ nâng
cao giá hoặc bán phá giá.
77
8
+ Đạo đức và bản sắc dân tộc.
3. Vai trò của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với công
cuộc xây dựng XHCN ở Việt Nam.
Phát triển trở thành nhiệm vụ, mục tiêu số một đối với toàn Đảng,
toàn dân ta trong bước đường đi tới. Muốn vậy, phải chuyển toàn bộ nền
kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển là phát triển nền kinh tế
thị trường cùng với nó là thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Sự phát
triển kinh tế xã hội nào rút cuộc cũng nhằm những mục tiêu xã hội, nhân
văn nhất định. Phát triển theo nghĩa đầy đủ là bên cạnh sự gia tăng về
lượng còn bao hàm cả sự thay đổi về chất. Phát triển là nâng cao phúc lợi
nhân dân, nâng cao tiêu chuẩn sống và cải tiến giáo dục, sức khoẻ và bình
đẳng về xã hội là tất cả những yếu tố cơ bản của phát triển kinh tế. Đảm
bảo các quyền chính trị và công dân là mục tiêu phát triển rộng lớn. Học
thuyết về hình thái kinh tế xã hội của C.Mác là một thành tựu của khoa
học loài người. Nó phác hoạ quy luật vận động tổng quát của lịch sử nhân
loại và sự phát triển của xã hội loài người sẽ tiến tới chủ nghĩa cộng sản,
mà giai đoạn phát triển thấp là CNXH. CNXH không đối lập với phát
triển, với kinh tế thị trường, mà là một nấc thang phát triển của sự phát
triển. Nó là cách thức giải quyết các quan hệ xã hội vì cuộc sống tốt đẹp
của đại đa số nhân dân lao động, của toàn xã hội, là sự thiết lập một trật
tự xã hội với mục tiêu công bằng và văn minh. Sự phát triển chỉ đem lại
sự giầu có và sự thống trị của tư bản của một số ít những người trong xã
hội, thì sự phát triển đó mang tính chất TBCN, là sự phát triển cổ điển. Sự
phát triển đem lại sự giầu có, phồn vinh, hạnh phúc cho đại đa số nhân
dân lao động, cho toàn thể xã hội, thì sự phát triển đó mang tính chất chủ
nghĩa là sự phát triển hiện đại. Cuộc đấu tranh cách mạng trường kỳ gian
khổ và quyết liệt của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm giả phóng nhân dân
lao động, đem lại hạnh phúc và giầu có cho nhân dân lao động. Vì vậy sự
phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai phải là sự phát triển vì
sự giầu có, nước mạnh, mà còn bao hàm vấn đề quan trọng mang tính
88
9
hiện đại là thiết lập một tổ chức xã hội, một trật tự xã hội với nội dung
công bằng và văn minh. Nhà nước XHCN của dân do dân và vì dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là đIều quan trọng đảm bảo
thực hiện sự định hướng đó. Kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự
tìm tòi, thể hiện mới cả về lý luận và thực tiễn của CNXH trong thời đại
hiện nay.
II. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
trong những năm đổi mới thực trạng và phương hướng giải quyết.
1.Quan điểm của Đảng ta về kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Đảng ta không coi cơ chế thị trường là liều thuốc vạn năng và
khuyến khích phát triển với bất cứ giá nào. Nếu tuyệt đối hoá nền kinh tế
thị trường thì sẽ rơi vào một sai lầm nguy hiểm từ phía khác. Bởi vì kinh
tế thị trường vốn có những hạn chế, khuyết tật, có tính tự phát bướng bỉnh
và sự cạnh tranh quyết liệt; nó là môi trường thuận lợi để phát sinh nhiều
tiêu cực và tệ nạn xã hội. Thực tế những năm qua, việc áp dụng cơ chế thị
trường bên cạnh những mặt tích cực chúng ta phải trả giá không ít hiện
tượng tiêu cực như: lối làm ăn chạy theo lợi nhuận đơn thuần đãn đến lừa
đảo, hối lộ, chốn thuế, thương mại hoá tràn lan, làm cho giá trị đạo đức
tinh thần đảo lộn và xuỗng cấp nhanh, lối sống ích kỷ thực dụng thấp hèn
có nguy cơ tái phát
Bản chất chế độ mới không cho phép tồn tại những hiện tượng như
vậy. Đảng ta vạch rõ nền kinh tế thị trường mà chúng ta đang áp dụng
phải là nền kinh tế có sự quản lý, hướng dẫn, điều tiết của nhà nước theo
định hướng XHCN. Sự quản lý của nhà nước đảm bảo cho kinh tế thị
trường phát triển đúng đắn, chăm lo lợi ích của nhân dân, vì con người,
do con người, thực hiện công bằng xã hội, đồng thời tạo điều kiện và môi
trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, kiểm soát chặt chẽ
và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Đảng chủ trương phát triển kinh
tế thị trường nhưng không để cho nó vận động một cách tự phát, mù
quáng, mà phải lãnh đạo, hướng dẫn, điều tiết, phát huy mặt tích cực , hạn
99
10
chế mặt tiêu cực, vì lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, vì một xã hội
công bằng văn minh. Đảng Cộng sản – là Đảng phấn đấu cho lý tưởng
XHCN và Cộng sản chủ nghĩa, thực sự đại diện và bảo vệ lợi ích của giai
cấp cộng nhân và nhân dân lao động. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố
quyết định nhất đảm bảo định hướng XHCN của kinh tế thị trường cũng
như toàn bộ sự phát triển của đất nước ta. Vả chăng, trong suốt thời gian
qua chính Đảng ta chứ không ai khác đã đề xướng và lãnh đạo công cuộc
đổi mơí ở Việt Nam. Trách nhiệm của Đảng là phải lãnh đạo thực hiện
thắng lợi sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam vì sự phồn vinh của đất
nước, vì cuộc sống hạnh phúc công bằng của toàn dân.
2. Thực trạng và quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN trong những năm đổi mới.
2.1 Giai đoạn từ 1986 - 1990.
Trước năm 1986 nền kinh tế nước ta trong tình trạng thấp kém, sản
xuất nhỏ, tự cung, tự cấp. Trình độ trang thiết bị trong sản xuất cũng như
kết cấu hạ tầng kinh tế lạc hậu, năng suất lao động thấp kém … Nền kinh
tế hoạt động với hiệu quả thấp, khủng hoảng kinh tế diễn ra nhiều năm
với đặc trưng: sản xuất chậm không ổn định, lạm phát lên đến 774,7%
năm 1986, trật an toàn không được đảm bảo, tham nhũng …Trước tình
hình đó tháng 12-1986 Đại hội VI đã thừa nhận “ Đó là một sai lầm chủ
quan, duy ý trí, không nắm vững quy luật khách quan và đã đề ra những
chủ trương phát triển sản xuất hàng hoá nhiều thành phần xoá bỏ cơ chế
quản lý tập trung quan liêu bao cấp, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng –
tiền, nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả
năng tiềm tàng của đất nước … để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất
“. Đây là bước tiến quan trọng trong tư duy kinh tế của Đảng ta càng
khẳng định rằng: không thể có thắng lợi của công cuộc đổi mới nếu xa rời
tư tưởng cách mạng, học thuyết khoa học của chủ nghĩa Mác-lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng dẫu sao ĐạI hội VI chưa dùng khái niệm
1010
11
kinh tế thị trường, cơ chế thị trường và nói đến phát triển hàng hoá còn dè
dặt, chưa bao quát hết các mặt của nó.
Phải đến hội nghị lần thứ 6 của ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá VI (tháng 3-1989) trên cơ sở tổng kết thực tiễn và nhấn mạnh: phát
triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên
CNXH là vấn đề có ý nghĩa có chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản
xuất nhỏ đi lên CNXH và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế cơ chế thị
trường … phải được vận dụng nhất quán trong kế hoạch hoá và chính
sách kinh tế. Các nghị quyết sau Đại hội VI của Đảng, nhất là về phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần … đã được nhân dân hưởng ứng
rộng rãi và đi sâu vào cuộc sống rất nhanh, góp phần khơi dậy nhiều tiềm
năng và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho nền kinh tế sống động hơn,
các hoạt động kinh doanh, dịch vụ sôi động hơn, bộ mặt thị trường thay
đổi nhộn nhịp hơn. Có thể nói, một trong những thành tựu nổi bật về đổi
mới kinh tế trong những năm nay là chúng ta đã bước đầu chuyển được
nền kinh tế từ chỗ mang nặng tính hiện vật, tự cung tự cấp với cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Điều này mọi người,
mọi nhà đều cảm thấy được, bạn bè trên thế giới thấy rất rõ. Ví dụ như:
trong giai đoạn 1986 – 1990 đầu tư toàn xã hội trung bình là 12,5% GDP,
tăng trưởng kinh tế trung bình là 3,9%, kim ngạch xuất khẩu bình quân
đạt 1,3 tỷ USD/năm, về lạm phát năm 1986 là 774,7% đến năm 1990
giảm xuống còn 67,1% (nguồn: Tổng cục thống kê).
2.2 Giai đoạn từ 1991-2000.
Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) khẳng định mạnh mẽ và dứt
khoát hơn vấn đề kinh tế thị trường. Đại hội cho rằng phát triển “Kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước là hoàn toàn cần thiết để giải phóng và phát huy được các
tiềm năng sản xuất trong xã hội”. Trong chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế – xã hội đến năm 2000 và Báo cáo chính trị tại Đại hội đã nêu rõ:
1111
12
thị trường ở nước ta bao gồm cả thị trường hàng hoá tiêu dùng, dịch vụ và
thị trường các yếu tố sản xuất (vốn, tiền tệ, ngoại hối …) cả thị trường tư
liệu sản xuất và thị trường sức lao động, thị trường trong nước và thị
trường ngoài nước. Thị trường đóng vai trò trực tiếp hướng dẫn các
doanh nghiệp lựa chọn lĩnh vực hoạt động, mặt hàng, quy mô, cộng nghệ
và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh nhằm đạt hiệu quả cao nhất
trong môi trường hợp tác và cạnh tranh. Phải phấn đấu để sớm hình thành
thị trường hoàn chỉnh thông suốt, gắn hệ thống giá nội địa với giá quốc
tế, xoá bỏ độc quyền và đặc quyền ở hầu hết các ngàng và lĩnh vực kinh
tế.
Trong 5 năm đầu ( 1991-1995) tuy nền kinh tế vẫn đứng trước nhiều
khó khăn, thử thách, nhưng việc triển khai mạnh mẽ đường lối đổi mới
toàn diện của Đảng, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân đã tạo ra
nhiều động lực phát triển mới, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch
5 năm được hoàn thành vượt mức và toàn diện mà các kế hoạch 5 năm
trước đó chưa bao giờ thực hiện được.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 8,2% ( mục tiêu là
5-6,5%) trong đó nông nghiệp tăng 4,5% công nghiệp và xây dựng tăng
13,6%, dịch vụ tăng 8,8%, lạm phát kiềm chế ổn định ở mức thấp bình
quân 23,4%/năm, giá hàng hoá và dịch vụ tăng trên thị trường năm 1991
tăng 67,6%, năm 1995 tăng 12,7%, tiền đồng ổn định, tỷ giá hối đoái giao
động trên dưới 11000 VNĐ/USD, quan hệ xuất nhập khẩu đã có nhiều
tiến bộ xuất khẩu hàng năm vẫn tăng: năm 1995 xuất khẩu 5,2 tỷ USD,
nhập khẩu 7,5 tỷ USD, mức sống nhân dân được cải thiện GDP đầu người
năm 1991 là 118 USD, năm 1995 là 273 USD … ( nguồn: Bộ kế hoạch và
đầu tư). Như vậy kết quả đổi mới đạt được trong giai đọan này đã chứng
minh đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo hướng
mở được đề ra từ Đại hội VI là đúng đắn. Nó cũng chứng tỏ bài học kiện
trì con đường đổi mới với bản lĩnh vững vàng, xoá bỏ tập trung hoá cao
độ, giải phóng mọi nguồn lực, giải toả tư tưởng kỳ thị khu vực tư nhân đi
liền với hình thức sở hữu quyền tư nhân, hoàn thiện pháp luật , cơ chế
1212
13
chính sách một cách đồng bộ và nhất quán … đây là những nhân tố cơ
bản quan trọng góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng.
Kết thúc thời kỳ kế hoạch 1991 –1995, Đại hội VIII đã kết luận “
Đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội tuy còn một số mặt
chưa vững chắc song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ
phát triển mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
Trong 5 năm (1996 – 2000) được xác định là bước rất quan trọng
của thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mục
tiêu và các chỉ tiêu phát triển của kế hoạch 5 năm (1996 –2000) đã được
xây dựng với mức phấn đấu rất cao, cả về tốc độ, chất lượng và hiệu quả
tăng trưởng của nền kinh tế. Việc chuyển từ giai đoạn lấy ổn định kinh tế
xã hội làm trọng tâm sang giai đoạn lấy phát triển làm trọng tâm đặt ra
yêu cầu rất cao, rất toàn diện theo chiều sâu cải cách kinh tế, đặc biệt là
phải chóng hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý đủ sức vận hành thông suốt,
hướng nền kinh tế đi vào phát triển và ổn định. Năm năm (1996 – 2000)
bên cạnh một số thuận lợi, nước ta gặp nhiều khó khăn, thách thức:
những yếu kém vốn có của nền kinh tế, những đợt thiên tai lớn liên tiếp,
cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở khu vực Châu á, tình hình thế giới
và khu vực diễn biến phức tạp. Trong hoàn cảnh đó, toàn Đảng và toàn
dân ta ra sức thực iện Nghị quyết Đại hội VIII, đạt được những thành tựu
quan trọng: tổng GDP tăng trưởng bình quân 6,7%/năm, giá trị sản xuất
công nghiệp tăng bình quân 12,2%/năm, giá trị các hàng dịch vụ tăng
6,4%/năm, tổng kim ngạch nhập khẩu đạt cao nhất từ trước đến nay:
khoảng 50 tỷ USD, tăng bình quân 18,6%/năm (nguồn: văn kiện Đại hội
Đảng IX). Bên cạnh những thành tựu còn những yếu kém, khuyết điểm:
nhịp độ tăng trưởng kinh tế mấy năm đầu chậm ( năm 1996 9,3%, năm
1999; 4,8%, sáu tháng đầu năm 2000; 6,2%) một số chỉ tiêu đề ra không
đạt ( nhịp độ tăng trưởng GDP kế hoạch đề ra là 9 – 10% nhưng chỉ đạt
6,7%/năm).
1313
14
Mặc dù có nhiều khó khăn, thử thách gay gắt, bị thiệt hại lớn do
thiên tai liên tục xảy ra, nhưng nhìn chung việc thực hiện chiến lược
( 1991 – 2000) đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng: tổng
sản phẩm trong nước sau 10 năm tăng gấp đôi, tích luỹ nội bộ của nền
kinh tế từ mức không đáng kể đến năm 2000 đạt 25% GDP, tốc độ tăng
trưởng kinh tế trung bình 7,5%/năm ( nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư).
Từ tình trạng khan hiếm, sản xuất không đáp ứng được nhu cầu thiết
yếu nay đã đảm bảo lương thực, thực phẩm nhiều loại tiêu dùng có dự trữ
kết cấu hạ tầng kinh tế phát triển nhanh, kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế các thành phần kinh tế phát triển khá nhanh. Từ
chỗ bị bao vây kinh tế, nước ta đã chủ động tranh thủ thời cơ từng bước
hội nhập có hiệu quả với kinh tế thế giới, thu hút đáng kể đầu tư trực tiếp
và nguồn tài trợ chính thức của nước ngoài. Mặt khác trình độ dân trí,
chất lượng nguồn nhân lực và tính năng động trong xã hội được nâng cao,
đời sống của tầng lớp nhân dân được cải thiện.
3. Tính toàn diện trong phương hướng phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta.
3.1 Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường.
Thị trường là sản phẩm tất yếu của sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng
hoá càng phát triển thì thị trường càng phát triển nghĩa là sản phẩm hàng
hoá quyết định thị trường, song bên cạnh đó thị trường cũng tác động trở
lại đối với sản xuất hàng hoá, nó tác động thúc đẩy sản xuất hàng hoá khi
thị trường càng được mở rộng thì quy mô sản xuất càng được tăng lên và
sự phân lớp trong sản xuất ngày càng sâu sắc. Trong điều kiện các yếu tố
thị trường phát triển không đồng bộ và toàn diện có phần nào đó cản trở
việc hình thành nền kinh tế thị trường, làm cho thị trường phát triển
không đúng bản chất. Trong thời gian tới việc cấp thiết là xây dựng và
hoàn chỉnh một cách toàn diện các yếu tố thị trường, cụ thể là:
Một là, phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ. Thị trường hàng hoá và
diạch vụ là tất yếu nòng cốt của nền kinh tế hàng hoá. Có thị trường hàng
1414

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét