Thứ Ba, 18 tháng 2, 2014

Nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty TNHH thương mại và xây dựng Thái Phương trên thị trường

được coi là nguồn chủ yếu cho họ phát triển. Nhưng mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ từ
nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ tăng lên khi chủ đầu tư và và người cho vay
thấy được khả năng xuất khẩu của nước đó, vì đây là nguồn chính đảm bảo nước này
có thể trả nợ được.
Thứ hai, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển. Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới đã, đang
và sẽ thay đổi mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các
quốc gia từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Có 2 cách nhìn nhận về tác
động của xuất khẩu đối với sản xuất và sự chuyển dịch kinh tế:
- Coi thị trường là mục tiêu sản xuất và xuất khẩu. Quan điểm này tác động tích cực
đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cụ thể là:
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành cùng có cơ hội phát triển.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phần ổn định sản
xuất, tạo ra lợi thế nhờ quy mô.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, mở
rộng khả năng tiêu dùng của một quốc gia. Hoạt động ngoại thương cho phép một
nước có thể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng lớn hơn nhiều lần so với khả
năng sản xuất của quốc gia đó.
Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo vốn và thu hút kỹ thuật công nghệ
từ các nước phát triển nhằm hiện đại hóa nền kinh tế nội địa, tạo năng lực cho sản xuất
mới.
Xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hóa, tăng cường hiệu quả sản
xuất của từng quốc gia. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển thì phân công lao
động ngày càng sâu sắc. Ngày nay đã có những sản phẩm mà việc chế tạo từng bộ
phận được thực hiện ở các quốc gia khác nhau. Để hoàn thiện được những sản phẩm
này, người ta phải tiến hành xuất khẩu linh kiện từ nước này sang nước khác để lắp
ráp sản phẩm hoàn chỉnh. Do đó, từng nước không nhất thiết phải sản xuất ra tất cả
các loại hàng hóa mà mình cần, mà thông qua xuất khẩu họ có thể tập trung vào sản
7
xuất một vài loại mà họ có lợi thế, sau đó tiến hành trao đổi lấy những hàng hóa mà
mình cần.
- Quan điểm khác lại cho rằng, chỉ xuất khẩu những hàng hóa thừa trong tiêu dùng
nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển, sản xuất về cơ
bản chưa đủ đáp ứng tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ sự thừa ra của sản xuất thì xuất
khẩu chỉ bó hẹp trong một phạm vi hẹp và tăng trưởng chậm, do đó ngành sản xuất
không có cơ hội phát triển.
Thứ ba, xuất khẩu có tác động tích cực đối với việc giải quyết công ăn việc
làm, cải thiện đời sống nhân dân.
Đối với việc giải quyết công ăn việc làm: xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động
thông qua sản xuất hàng hóa xuất khẩu, tạo thu nhập ổn định cho người lao động.
Mặt khác, xuất khẩu tạo ra nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa, đáp ứng nhu
cầu ngày càng phong phú và đa dạng của nhân dân.
Thứ tư, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối
ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại có sự tác động qua lại, phụ
thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là một loại hoạt động cơ bản, là hình thức ban
đầu của kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như du lịch quốc tế,
bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế…phát triển theo. Ngược lại sự phát triển của ngành
này thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển.
1.1.2.2. Đối với doanh nghiệp
Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có vai trò to lớn đối với bản thân
doanh nghiệp tham gia vào thương mại quốc tế.
Thứ nhất, thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có điều kiện tham
gia và cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Những yếu tố này
đòi hỏi các doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường.
Thứ hai, sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao
động, tạo ra thu nhập ổn định cho họ, tạo nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng.
Nó vừa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, vừa thu được lợi nhuận.
Sản xuất hàng xuất khẩu còng giúp doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện
8
công tác quản lý kinh doanh, đồng thời có vốn để tiếp tục đầu tư vào sản xuất không
chỉ về chiều rộng mà cả chiều sâu.
Thứ ba, xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng
quan hệ kinh doanh với các bạn hàng cả trong và ngoài nước, trên cơ sở cả hai bên đều
có lợi. Vì vậy đã giúp doanh nghiệp tăng được doanh số và lợi nhuận, đồng thời chia
sẻ được rủi ro mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của
công ty.
Thứ tư, xuất khẩu khuyến khích phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh
nghiệp, chẳng hạn như hoạt động đầu tư, nghiên cứu và phát triển, các hoạt động sản
xuất, marketing cũng như sự phân phối và mở rộng kinh doanh.
Như vậy, hoạt động xuất khẩu có vai trò quan trọng và có tác động tích cực tói
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp cũng như sự phát triển kinh tế của một quốc
gia.
1.2. Các phương thức xuất khẩu chủ yếu
Hoạt động xuất khẩu hàng hóa được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau,
điều này căn cứ vào đặc điểm sở hữu hàng hóa trước khi xuất khẩu, căn cứ vào nguồn
hàng xuất khẩu… Hiện nay, các doanh nghiệp ngoại thương thường tiến hành một số
hình thức xuất khẩu và được coi là xuất khẩu sau:
1.2.1. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là một hình thức xuất khẩu hàng hóa mà trong đó các doanh
nghiệp ngoại thương tự bỏ vốn ra mua các sản phẩm từ các đơn vị sản xuất trong
nước, sau đó bán các sản phẩm này cho các khách hàng nước ngoài (có thể qua công
đoạn gia công chế biến).
Theo hình thức xuất khẩu này, các doanh nghiệp ngoại thương muốn có hàng
hóa để xuất khẩu thì phải có vốn thu gom hàng hóa từ các địa phương, các cơ sở sản
xuất trong nước. Khi doanh nghiệp bỏ vốn ra để mua hàng thì hàng hóa thuộc sở hữu
của doanh nghiệp.
Xuất khẩu theo hình thức này thông thường có hiệu quả kinh doanh cao hơn
các hình thức xuất khẩu khác, bởi vì doanh nghiệp có thể mua được những hàng hóa
9
chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu của mình cũng như của khách hàng với giá cả
mua vào thấp hơn. Tuy nhiên, đây là hình thức xuất khẩu có độ rủi ro lớn, hàng hóa có
thể không bán được do những thay đổi bất ngờ của khách hàng, của thị trường dẫn đến
ứ đọng vốn và đôi khi bị thất thoát hàng hóa.
1.2.2. Xuất khẩu ủy thác
Xuất khẩu ủy thác là một hình thức dịch vụ thương mại, theo đó doanh nghiệp
ngoại thương đứng ra với vai trò là trung gian thực hiện việc xuất khẩu hàng hóa cho
các đơn vị có hàng hóa ủy thác. Trong hình thức này, hàng hóa trước khi kết thúc quá
trình xuất khẩu vẫn thuộc sỡ hữu của đơn vị ủy thác. Doanh nghiệp ngoại thương chỉ
có nhiệm vụ làm các thủ tục về xuất khẩu hàng hóa, kể cả việc vận chuyển hàng hóa
và được hưởng một khoản tiền gọi là phí ủy thác mà đơn vị ủy thác trả.
Hình thức xuất khẩu này có ưu điểm là dễ thực hiện, độ rủi ro thấp, doanh
nghiệp ngoại thương không phải là người chịu trách nhiệm cuối cùng về hàng hóa
cũng như không phải tự bỏ vốn ra mua hàng. Tuy nhiên, phí ủy thác mà doanh nghiệp
nhận được thường nhỏ nhưng được thanh toán nhanh.
1.2.3. Hoạt động gia công xuất khẩu quốc tế
Gia công quốc tế là một hoạt động mà một bên – gọi là bên đặt hàng – giao
nguyên liệu, có khi cả máy móc, thiết bị và chuyên gia cho bên kia gọi là bên nhận gia
công để sản xuất ra một mặt hàng mới theo yêu cầu của bên đặt hàng. Hàng hóa sau
khi sản xuất xong được giao cho bên đặt gia công. Bên nhận gia công được trả tiền
công. Khi hoạt động gia công vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì được gọi là gia công
quốc tế.
Theo hình thức xuất khẩu này, doanh nghiệp ngoại thương đứng ra nhập
nguyên vật liệu, bán thành phẩm về cho đơn vị nhận gia công từ các khách hàng nước
ngoài đặt gia công. Sau đó, đơn vị ngoại thương sẽ nhận thành phẩm từ các đơn vị
nhận gia công và xuất thành phẩm này sang cho khách hàng nước ngoài đã đặt gia
công. Đơn vị ngoại thương sẽ nhận được tiền thu lao gia công.
Hoạt động gia công xuất khẩu có đặc điểm là doanh nghiệp ngoại thương
không phải bỏ vốn vào kinh doanh nhưng thu được hiệu quả cũng khá cao, ít rủi ro và
10
khả năng thanh toán đảm bảo vì đầu ra chắc chắn. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp muốn
thực hiện theo hình thức này, doanh nghiệp phải quan hệ được với các khách hàng đặt
gia công có uy tín. Đây là một hình thức phức tạp, nhất là trong quá trình thỏa thuận
với bên khách hàng gia công về số lượng, chất lượng, nguyên liệu và tỷ lệ thu hồi
thành phẩm, giám sát quá trình gia công. Do đó, các cán bộ kinh doanh của doanh
nghiệp phải am hiểu tường tận về các nghiệp vụ và quá trình gia công sản phẩm.
1.2.4. Họat động xuất khẩu theo hình thức buôn bán đối lưu
Buôn bán đối lưu là một phương thức giao dịch trao đổi hàng hóa, trong đó
xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng
hàng giao đi có giá trị tương xứng với lượng hàng nhận về. Ở đây mục đích của xuất
khẩu không phải là thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một hàng hóa khác có
giá trị tương đương.
1.2.5. Hoạt động xuất khẩu theo nghị định thư
Đây là hình thức xuất khẩu hàng hóa thường là hàng trả nợ được thực hiện theo
Nghị định thư giữa hai Chính phủ của hai nước. Xuất khẩu theo hình thức này có
nhiều ưu điểm như: khả năng thanh toán chắc chắn (vì Nhà nước thanh toán cho doanh
nghiệp), giá cả hàng hóa dễ chấp nhận, tiết kiệm được chi phí trong nghiên cứu thị
trường, tìm kiếm bạn hàng.
1.2.6. Một số loại hình xuất khẩu khác
Theo Nghị định số 33/CP của Chính phủ ngày 14/04/1994 về quản lý Nhà nước
đối với hoạt động xuất nhập khẩu có quy định các hình thức dưới đây cũng được coi là
xuất khẩu hàng hóa:
1.2.6.1. Tạm nhập tái xuất
Tạm nhập tái xuất được hiểu là việc mua hàng hóa của một nước để bán cho
một nước khác (nước thứ ba) trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương có làm các
thủ tục nhập khẩu rồi lại làm các thủ tục xuất khẩu không qua gia công chế biến.
Đối với hàng hóa nhập khẩu nhằm mục đích sử dụng trong nước nhưng một
thời gian sau, vì một lý do nào đó nó không được sử dụng nữa mà được xuất ra nước
ngoài thì không được coi là hàng hóa kinh doanh theo hình thức tạm nhập tái xuất.
11
Thời gian hàng hóa kinh doanh theo hình thức tạm nhập tái xuất được lưu
chuyển ở Việt Nam là 60 ngày.
1.2.6.2. Chuyển khẩu hàng hóa
Chuyển khẩu hàng hóa là việc mua hàng của một nước (nước xuất khẩu) để bán
cho một nước khác (nước nhập khẩu) nhưng không làm thủ tục nhập khẩu cũng như
thủ tục xuất khẩu từ các nước này.
1.2.6.3. Quá cảnh hàng hóa
Hàng hóa của một nước được gửi đi tới một nước thứ ba qua lãnh thổ của nước
thứ hai, có sự cho phép của Chính phủ nước này. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam có
đủ điều kiện như quy định của Nhà nước Việt Nam có thể xem xét cho thực hiện dịch
vụ này để tăng thêm thu nhập.
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa
Việc xem xét những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nói chung và
hoạt động xuất khẩu nói riêng là rất cần thiết, bởi vị những nhân tố này thường xuyên
làm ảnh hưởng tới kết quả cũng như tiến triển trong tương lai của hoạt động xuất khẩu
của doanh nghiệp. Mục đích của việc nghiên cứu này là nhằm nhận diện các nhân tố
ảnh hưởng, chiều hướng tác động của chúng đến họat động xuất khẩu của doanh
nghiệp.
1.3.1. Nhóm nhân tố ảnh hưởng trong nước
1.3.1.1. Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Đây là nhóm nhân tố ảnh hưởng nằm bên trong đất nước nhưng không chịu sự
kiểm soát của doanh nghiệp, các nhân tố đó là:
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chính sách và pháp luật liên quan đến
hoạt động xuất khẩu. Đây là nhân tố không chỉ tác động đến hoạt động xuất khẩu của
doanh nghiệp ở hiện tại mà còn cả trong tương lai. Vì vậy, một mặt doanh nghiệp phải
tuân thủ và hưởng ứng nó ở hiện tại, mặt khác doanh nghiệp phải có các kế hoạch xuất
khẩu trong tương lai cho phù hợp.
12
Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu. Đây là một
chiến lược tập trung vào việc tạo ra các sản phẩm xuất khẩu ngày càng phù hợp với
nhu cầu của thị trường thế giới dựa trên cơ sở khai thác tốt với nhu cầu của thị trường
quốc gia. Với chiến lược này, Nhà nước có các chính sách phát triển cụ thể cho từng
giai đoạn nhằm khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức kinh tế tham gia hoạt động xuất
khẩu trong đó có doanh nghiệp ngoại thương.
Việc khuyến khích hoạt động xuất khẩu được thể hiện ở các chính sách, các
biện pháp liên quan đến việc tạo nguồn hành cho xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi
cho xuất khẩu, hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu.
Tuy nhiên, không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu bởi vì
việc tự do hoàn toàn đối với xuất khẩu nhiều khi mang lại thiệt hại rất lớn cho các
quốc gia, chẳng hạn việc xuất khẩu hàng hóa quý hiếm, các sản phẩm thuộc về di tích
văn hóa, các sản phẩm là vũ khí…
- Tỷ giá hối đoái hiện hành: là giá cả của ngoại tệ tính theo đồng nội tệ, hay
quan hệ so sánh về giá trị giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Trong hoạt động xuất
khẩu, doanh nghiệp phải quan tâm tới yếu tố này vì nó liên quan đến việc thu đổi
ngoại tệ sang nội tệ của doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả xuất
khẩu của doanh nghiệp.
Nếu tỷ giá hối đoái lớn hơn tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu thì doanh nghiệp có thể
thực hiện hoạt động xuất khẩu. Ngược lại, nếu tỷ giá hối đoái mà nhỏ hơn tỷ suất
ngoại tệ thì doanh nghiệp không nên xuất khẩu.
- Khả năng sản xuất hàng hóa xuất khẩu của từng nước: khả năng này đảm bảo
nguồn hàng cho doanh nghiệp, biểu hiện ở các mặt hàng có thể được sản xuất với khối
lượng, chất lượng, quy cách, mẫu mã có phù hợp với thị trường nước ngoài hay
không. Điều này quyết định khả năng cạnh tranh của các mặt hàng khi doanh nghiệp
đưa ra chào bán trên thị trường quốc tế.
Nếu một đất nước có trình độ khoa học công nghệ phát triển, có khả năng tạo ra
nhiều mặt hàng đa dạng, chất lượng tiêu chuẩn quốc tế, hình thức mẫu mã đảm bảo
thẩm mỹ cao và giá cả phải chăng thì đây là điều kiện thuận lợi lớn cho doanh nghiệp
13
khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Ngược lại, khả năng sản xuất trong nước yếu
kém, với chủng loại mặt hàng đơn điệu, thô sơ, sẽ hạn chế khả năng cạnh tranh và mở
rộng thị trường xuất khẩu cho doanh nghiệp.
Hiện nay ở Việt Nam năng lực sản xuất hàng xuất khẩu còn thấp kém, mặt
hàng xuất khẩu còn đơn sơ, chất lượng chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đây là một khó
khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp ngoại thương khi tham gia hoạt động xuất
khẩu.
- Mức độ cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước: mức độ cạnh
tranh thể hiện ở số lượng của các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cùng ngành hoặc
cùng mặt hàng có thể thay thế cho nhau được. Cạnh tranh một mặt có thể thúc đẩy sự
vươn lên của các doanh nghiệp, mặt khác nó cũng có thể “dìm chết” các doanh nghiệp
yếu kém.
Hiện nay, Nhà nước có chủ trương khuyến khích mọi doanh nghiệp, mọi thành
phần kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu, do đó đôi khi dẫn đến sự cạnh tranh không
lành mạnh. Đây cũng là một thách thức cho các doanh nghiệp ngoại thương.
- Trình độ phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của đất nước: đây là nhân tố thuộc
về cơ sở hạ tầng cho hoạt động xuất khẩu bao gồm phát triển của hệ thống giao thông
vận tải, trình độ của hệ thống thông tin liên lạc…Các nhân tố này có thể tăng cường
hoặc hạn chế khả năng giao dịch, mở rộng thị trường xuất khẩu, các dịch vụ vận
chuyển hàng hóa xuất của doanh nghiệp.
Trên đây là những nhân tố khách quan ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của
các doanh nghiệp. Ngoài ra, còn có rất nhiều các nhân tố khác nữa mà doanh nghiệp
cần phải nắm bắt và hiểu rõ về nó.
1.3.1.2. Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp
Đây là nhân tố thuộc về doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể kiểm soát và
điều chỉnh nó theo hướng tích cực nhằm phục vụ cho hoạt động xuất khẩu của mình,
có thể kể đến một số nhân tố sau:
- Trình độ năng lực của nhà lãnh đạo và quản trị kinh doanh của ban giám đốc
doanh nghiệp: đây là nhân tố hết sức quan trọng, quyết định đến sự thành công trong
14
kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì trình độ và năng lực quản trị kinh doanh của ban
Giám đốc doanh nghiệp cho phép doanh nghiệp có được các chiến lược kinh doanh
đúng đắn, đảm bảo cho doanh nghiệp có thể tận dụng được các cơ hội của thị trường
quốc tế trên cơ sở khả năng vốn có của mình.
- Trình độ và năng lực kinh doanh xuất khẩu của đội ngũ cán bộ kinh doanh
trong doanh nghiệp: cán bộ kinh doanh là những người trực tiếp thực hiện các công
việc của quá trình xuất khẩu hàng hóa. Vì vậy, trình độ và năng lực trong hoạt động
xuất khẩu của họ sẽ quyết định tới hiệu quả công việc, theo đó quyết định tới hiệu quả
kinh doanh của toàn doanh nghiệp.
- Khả năng tài chính của doanh nghiệp: biểu hiện ở quy mô vốn hiện có và khả
năng huy động vốn của doanh nghiệp. Năng lực tài chính có thể làm hạn chế hoặc mở
rộng các khả năng khác của doanh nghiệp, vì vốn là tiền đề cho mọi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp có tác động không nhỏ tới kết quả
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu chiến lược kinh doanh không phù hợp
làm cho doanh nghiệp bị thua lỗ và có thể dẫn đến phá sản.
1.3.1.3. Nhân tố tài nguyên thiên nhiên và địa lý
Nguồn tài nguyên thiên nhiên là một trong những nhân tố quan trọng làm cơ sở
cho quốc gia xây dựng cơ cấu ngành và vùng để xuất khẩu. Nó góp phần làm ảnh
hưởng đến loại hàng, quy mô hàng xuất khẩu của quốc gia.
Vị trí địa lý có vai trò như nhân tố tích cực hoặc tiêu cực đối với sự phát triển
kinh tế cũng như xuất khẩu của một quốc gia. Vị trí địa lý thuận lợi là điều kiện cho
phép một quốc gia tranh thủ được phân công lao động quốc tế, hoặc thúc đẩy xuất
khẩu dịch vụ như du lịch, vận tải, ngân hàng…
1.3.2. Nhóm nhân tố ảnh hưởng nước ngoài
Đây là các nhân tố nằm ngoài phạm vi kiểm soát của quốc gia, có ảnh hưởng
trực tiếp hoặc gián tiếp tới các hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
- Tình hình phát triển kinh tế của thị trường xuất khẩu: có ảnh hưởng đến nhu
cầu và khả năng thanh toán của khách hàng xuất khẩu, do đó có ảnh hưởng đến hoạt
15
động xuất khẩu của doanh nghiệp. Các nhân tố phản ánh sự phát triển kinh tế của thị
trường xuất khẩu là tổng sản phẩm quốc nội (GDP), thu nhập dân cư, tình hình lạm
phát, lãi suất…
Tình hình chính trị, hợp tác quốc tế: biểu hiện ở xu thế hợp tác giữa các quốc
gia. Điều này sẽ dẫn đến việc hình thành các khối kinh tế, chính trị của một nhóm
quốc gia, do đó sẽ ảnh hưởng tới tình hình thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp.
Đặc điểm và sự thay đổi về văn hóa-xã hội của thị trường xuất khẩu: có ảnh
hưởng đến nhu cầu của khách hàng, do đó ảnh hưởng đến các quyết định mua hàng
của khách hàng và ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
- Trình độ phát triển khoa học công nghệ của thị trường xuất khẩu: sẽ ảnh
hưởng đến nhiều mặt đời sống kinh tế xã hội của thị trường đó, do vậy sẽ ảnh hưởng
đến nhu cầu và sức mua của khách hàng.
Chính sách thương mại của các quốc gia có thị trường xuất khẩu của doanh
nghiệp: có thể làm hạn chế hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu
sang thị trường đó. Một quốc gia có chính sách thương mại tự do sẽ giúp cho hoạt
động xuất khẩu của doanh nghiệp sang thị trường quốc gia đó được thực hiện một
cách dễ dàng hơn và thường mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ngược lại, một quốc gia có
chính sách thương mại khắt khe thì sẽ tạo nhiều khó khăn cho doanh nghiệp khi thực
hiện xuất khẩu sang thị trường này.
Mức độ cạnh tranh quốc tế: biểu hiện ở sức ép cạnh tranh từ phía các doanh
nghiệp, các công ty quốc tế đối với doanh nghiệp khi cùng tham gia vào một thị
trường xuất khẩu nhất định. Sức ép này càng lớn thì càng gây khó khăn cho doanh
nghiệp khi muốn thâm nhập, duy trì, mở rộng thị trường xuất khẩu cho mình.
1.3.3. Ảnh hưởng tình hình kinh tế xã hội
Trong điều kiện mà mỗi quốc gia đều dựa vào lợi thế của mình cũng như thị
trường tiêu thụ thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu thì tính liên kết và phụ thuộc
giữa các nước ngày càng tăng. Chính vì điều này mà mỗi sự biến động của tình hình
kinh tế - xã hội ở nước ngoài đều có những ảnh hưởng nhất định đối với hoạt động
kinh tế trong nước. Lĩnh vực xuất khẩu là lĩnh vực trực tiếp quan hệ với các chủ thể
16

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét