Cơ chế, chính sách tài chính chưa tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá
nhân hoạt động khoa học và công nghệ. Cơ chế tài chính còn chưa tạo ra sự tự chủ cao
đối với các tổ chức khoa học và công nghệ. Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học
và công nghệ còn dàn trải, thiếu tập trung cho các lĩnh vực, công trình trọng điểm. Thiếu
biện pháp hữu hiệu để huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước cho khoa học
và công nghệ. Thiếu các nguồn vốn đầu tư mạo hiểm để khuyến khích nghiên cứu, ứng
dụng công nghệ cao vào sản xuất, kinh doanh.
Cơ chế quản lý cán bộ khoa học và công nghệ chưa tạo động lực để phát huy năng lực
sáng tạo của cán bộ khoa học và công nghệ. Chậm chuyển đổi từ chế độ công chức sang
chế độ viên chức và hợp đồng, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu chuyển và đổi
mới cán bộ. Thiếu cơ chế, biện pháp cụ thể xây dựng và nâng cao vai trò của đội ngũ cán
bộ khoa học và công nghệ đầu ngành và các tập thể khoa học và công nghệ mạnh. Chế độ
tiền lương còn bất hợp lý, không khuyến khích cán bộ toàn tâm với sự nghiệp khoa học
và công nghệ. Chưa có các chính sách cụ thể khuyến khích mạnh lực lượng khoa học và
công nghệ ngoài nước tham gia đóng góp vào sự nghiệp phát triển đất nước.
Thị trường công nghệ còn nhỏ bé, chậm phát triển. Hoạt động mua, bán công nghệ và lưu
thông các kết quả nghiên cứu còn rất hạn chế do thiếu nhiều tác nhân quan trọng, các yếu
tố cấu thành thị trường và các quy định pháp lý cần thiết.
Phần lớn các kết quả nghiên cứu còn dừng ở phạm vi phòng thí nghiệm, chưa tạo ra được
nhiều công nghệ hoàn chỉnh có thể thương mại hoá. Chưa chú trọng việc mua sáng chế
công nghệ của các nước tiên tiến để đổi mới công nghệ.
Quy định về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ chưa khuyến khích các tổ chức
thực hiện nghiên cứu quan tâm khai thác, thương mại hóa các kết quả nghiên cứu được
tạo ra bằng kinh phí từ ngân sách nhà nước. Hiệu lực thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ
thấp. Năng lực của các tổ chức trung gian, môi giới công nghệ còn yếu chưa thật sự đáp
ứng vai trò cầu nối giữa cung và cầu.
Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ còn chưa đổi mới kịp với yêu cầu chuyển
sang kinh tế thị trường. Thiếu cơ chế cụ thể
để điều phối hoạt động quản lý nhà nước về
khoa học và công nghệ. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước
đối với hoạt động khoa học và công nghệ còn thiếu, chưa cụ thể, thiếu đồng bộ, lạc hậu
so với thực tiễn, nhiều quy định không khả thi. Thiếu phân công, phân cấp rõ ràng về
quyền hạn và trách nhiệm giữa các Bộ, ngành và giữa trung ương với địa phương.
Những yếu kém nêu trên là do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Một là, quan điểm khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực phát triển đất nước đã
được khẳng định trong các Nghị quyết của Đảng, nhưng chưa được quán triệt đầy đủ để
chuyển thành hành động thực tế của các cấp chính quyền, các Bộ, ngành, địa phương
trong xây dựng và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều chủ
trương, chính sách của Đảng và Chính phủ về phát triển khoa học và công nghệ chậm
được thể chế hoá bằng các văn bản quy phạm pháp luật đáp ứng nhu cầu đổi mới trong
thực tiễn; lãnh đạo các cấp thiếu kiên trì, kiên quyết trong tổ chức và chỉ đạo thực hiện
đổi mới quản lý khoa học và công nghệ.
Hai là, chậm đổi mới tư duy, phương pháp quản lý khoa học và công nghệ trong điều
kiện chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế
quốc tế. Chưa làm rõ trách nhiệm của Nhà nước về đầu tư phát triển đối với một số hoạt
động khoa học và công nghệ như nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu mang tính công ích,
nghiên cứu chiến lược, chính sách phát triển v.v ; chưa có cơ chế, chính sách phù hợp
đối với các hoạt động khoa học và công nghệ cần và có thể vận dụng cơ chế thị trường
như hoạt động nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ, dịch vụ khoa học và công
nghệ.
Chưa tách biệt quản lý hành chính nhà nước với hoạt động sự nghiệp dẫn đến tình trạng
các cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ. Thiếu cơ chế hữu hiệu về thanh tra, kiểm tra và quy định trách nhiệm rõ
ràng trong hoạt động khoa học và công nghệ.
Ba là, chưa coi trọng tổng kết thực tiễn các điển hình tiên tiến. Trong nh
ững năm gần
đây, với sự năng động sáng tạo của các tổ chức khoa học và công nghệ, đã xuất hiện
nhiều điển hình tốt về gắn kết giữa nghiên cứu khoa học với sản xuất, nhưng chưa được
tổng kết kịp thời để nhân rộng.
Bốn là, cơ chế quản lý kinh tế hiện nay còn duy trì sự bao cấp gián tiếp của Nhà nước
thông qua các ưu đãi, độc quyền trong nhiều lĩnh vực, khiến cho các doanh nghiệp nhà
nước ít quan tâm đến nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực
cạnh tranh. Năng lực khoa học và công nghệ của doanh nghiệp còn bất cập, thiếu đội ngũ
cán bộ khoa học và công nghệ trong các doanh nghiệp làm cầu nối cho ứng dụng các kết
quả nghiên cứu vào sản xuất. Hệ thống tài chính, tiền tệ kém phát triển cũng không tạo
điều kiện cho doanh nghiệp tự huy động được nguồn vốn để đầu tư cho khoa học và công
nghệ.
II. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM VÀ NGUYÊN TẮC TIẾP TỤC ĐỔI MỚI CƠ CHẾ
QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1. Mục tiêu
a) Mục tiêu chung:
Từ nay đến năm 2010, tiếp tục đổi mới, tạo bước chuyển biến cơ bản trong quản lý khoa
học và công nghệ phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với yêu
cầu chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và đặc thù của hoạt động khoa học và công nghệ,
nhằm nâng cao rõ rệt chất lượng, hiệu quả hoạt động và tăng cường tiềm lực khoa học và
công nghệ, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển bền vững với tốc độ nhanh của đất
nước.
b) Mục tiêu cụ thể:
- Hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật thực hiện đổi mới cơ chế quản lý
khoa học và công nghệ.
- Hoàn thiện cơ chế xác định và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ gắn
với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và cơ chế đánh giá hoạt động khoa học và công
nghệ dựa trên tiêu chuẩn chất lượng khoa học và hiệu quả kinh tế - xã hội.
- Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ
công lập; hoàn thành việc thí điểm và tổng kết rút kinh nghiệm để nhân rộng việc chuyển
các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang hoạt động theo cơ chế
doanh nghiệp.
- Phấn đấu đạt tỷ lệ 50/50 giữa kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ từ nguồn kinh
phí ngân sách nhà nước và nguồn ngoài ngân sách nhà nước trên cơ sở áp dụng các biện
pháp hữu hiệu đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ; đổi
mới cơ bản cơ chế tài chính tạo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và
công nghệ.
- Hoàn thành cơ bản các thể chế hỗ trợ phát triển thị trường công nghệ, thúc đẩy mua bán,
chuyển giao và đổi mới công nghệ.
- Thực hiện các chính sách trọng dụng, tôn vinh nhân tài trong hoạt động khoa học và
công nghệ.
- Thực hiện cải cách hành chính, phân công, phân cấp và nâng cao vai trò điều phối của
Chính phủ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước về khoa học
và công nghệ.
2. Quan điểm
Việc đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ cần thực hiện theo các quan
điểm
sau đây:
a) Chuyển mạnh quản lý khoa học và công nghệ từ cơ chế hành chính, bao cấp sang cơ
chế thị trường; tách biệt quản lý giữa khu vực hành chính và khu vực sự nghiệp trong hệ
thống khoa học và công nghệ.
b) Đẩy mạnh xã hội hoá, tạo môi trường bình đẳng cho mọi tổ chức, cá nhân hoạt động
khoa học và công nghệ.
c) Gắn kết chặt chẽ sản xuất, kinh doanh với nghiên cứu, đào tạo; doanh nghiệp đóng vai
trò là trung tâm ứng dụng và đổi mới công nghệ.
d) Phát huy dân chủ, nâng cao tính sáng tạo trong nghiên cứu khoa học, đặc biệt là trong
khoa học xã hội và nhân văn.
đ) Đẩy mạnh hội nhập, hợp tác quốc tế hoạt động khoa học và công nghệ, tiếp thu có
chọn lọc tri thức khoa học, chuyển giao công nghệ, thu hút nguồn lực bên ngoài phục vụ
phát triển khoa học và công nghệ.
3. Nguyên tắc
Việc đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ trong thời gian tới phải đảm bảo các
nguyên tắc chủ yếu sau:
a) Bảo đảm sự đồng bộ giữa đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ với đổi mới
cơ chế quản lý kinh tế, xã hội.
b) Xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách rõ ràng và nhất quán, bảo đảm sự điều hoà, phối
hợp, phân công, phân cấp và quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn giữa các Bộ, ngành,
địa phương trong quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ.
c) Thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, tạo
động lực mạnh mẽ về vật chất và tinh thần cho các tổ chức và cá nhân hoạt động khoa
học và công nghệ trong điều kiện kinh tế thị trường.
d) Lấy chất lượng khoa học - công nghệ và hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn chủ
yếu để đánh giá hoạt động khoa học và công nghệ; tiến tới các tiêu chuẩn đánh giá của
quốc tế.
đ) Bảo đảm tính khả thi, coi trọng tổng kết thực tiễn trong quá trình thực hiện.
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG
NGHỆ
1. Hoàn thiện cơ chế xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ
Cơ chế xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ phải xuất phát từ
nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia, của các ngành, địa phương ở mỗi thời
kỳ.
a) Phân công, phân cấp rõ ràng trong xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học
và công nghệ
Chính phủ quyết định các định hướng phát triển khoa học và công nghệ trọng điểm làm
cơ sở xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp nhà nước, có tầm quan trọng quốc
gia, mang tính liên ngành và dài hạn, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc
phòng và nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia. Thủ tướng Chính phủ quyết
định các nhiệm vụ khoa học và công nghệ trọng điểm cấp nhà nước, các nhiệm vụ khoa
học - công nghệ phục vụ trực tiếp cho sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ. Bộ Khoa học
và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các Bộ
, ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương và cơ quan liên quan xây dựng và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ khoa
học và công nghệ này, lồng ghép với các chương trình kinh tế - xã hội.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quyết định nhiệm vụ khoa học và
công nghệ phục vụ trực tiếp mục tiêu phát triển của mình, không trùng lặp với nhiệm vụ
khoa học và công nghệ cấp nhà nước. Cơ quan quản lý khoa học và công nghệ thuộc Bộ,
cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan xây
dựng và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ thuộc phạm vi quản lý.
Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định nhiệm vụ khoa
học và công nghệ chủ yếu mang tính ứng dụng, phục vụ trực tiếp mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương. Cơ quan quản lý khoa học và công nghệ của tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xây dựng và tổ chức thực hiện các
nhiệm vụ khoa học và công nghệ của địa phương.
Các tổ chức khoa học và công nghệ, các doanh nghiệp, tổ chức xã hội thuộc mọi thành
phần kinh tế tham gia xây dựng và thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ của Nhà
nước, tự chủ trong việc xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ của tổ chức mình.
Tăng cường sự điều phối của Chính phủ trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các
nhiệm vụ khoa học và công nghệ để tránh sự chồng chéo và trùng lặp. Bộ Khoa học và
Công nghệ giúp Chính phủ tổ chức thực hiện việc điều phối này.
b) Hoàn thiện cơ chế xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ của
Nhà nước
Xác định rõ các nhiệm vụ khoa học và công nghệ ưu tiên ở các cấp. Cơ quan quản lý nhà
nước về khoa học và công nghệ các cấp tổ chức việc trao đổi giữa các viện, trường,
doanh nghiệp và cơ quan hoạch định chính sách để xác định các nhiệm vụ ưu tiên.
Đối với các nhiệm vụ khoa học và công nghệ mang tính
ứng dụng, xuất phát từ nhu cầu
nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các sản phẩm, thực hiện cơ chế liên kết
giữa tổ chức khoa học và công nghệ với cơ sở áp dụng kết quả nghiên cứu trong toàn bộ
quá trình từ xác định nhiệm vụ, tổ chức thực hiện, đánh giá và đưa kết quả nghiên cứu
vào thực tiễn.
Áp dụng rộng rãi phương thức tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học
và công nghệ theo cơ chế cạnh tranh, công khai, dân chủ. Việc giao trực tiếp cho tổ chức,
cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ phải được thực hiện công khai dựa
trên các tiêu chí lựa chọn rõ ràng. Hoàn thiện quy chế tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực
hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
Đổi mới căn bản công tác đánh giá hoạt động khoa học và công nghệ dựa trên những tiêu
chuẩn rõ ràng, cụ thể, phù hợp với từng loại hình nghiên cứu: đối với nghiên cứu cơ bản
phải đánh giá bằng chất lượng khoa học phù hợp với chuẩn mực quốc tế; đối với nghiên
cứu ứng dụng và phát triển công nghệ phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội của việc ứng
dụng trong thực tiễn làm tiêu chuẩn chủ yếu.
Hoàn thiện các quy định về thành lập và hoạt động của các hội đồng tư vấn xác định,
tuyển chọn và đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, bảo đảm tính
độc lập và khách quan của hội đồng. Xây dựng cơ sở dữ liệu về chuyên gia đánh giá, tiêu
chuẩn thành viên và cơ cấu hội đồng phù hợp với từng loại hình nghiên cứu.
c) Đưa nhanh các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ áp dụng vào thực tiễn sản
xuất và đời sống
Cơ quan quản lý khoa học và công nghệ các cấp có trách nhiệm xây dựng và bảo đảm
thực hiện cơ chế đưa nhanh các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ áp dụng vào
thực tiễn. Tổ chức và cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ có trách nhiệm
thực hiện các quy định về lưu giữ, bảo mật, phổ biến và sử dụng và chuyển giao kết quả
nghiên cứu khoa học và công nghệ. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có
trách nhiệm đầu tư cho nghiên cứu và đổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản
phẩm hàng hoá, dịch vụ, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhà nước
ban hành các chính sách khuyến khích và thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế đổi mới công nghệ.
2. Đổi mới cơ chế quản lý và hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ
Đổi mới cơ chế quản lý và hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ nhằm tạo
điều kiện thuận lợi phát huy tối đa tính chủ động, sáng tạo và nâng cao hiệu quả hoạt
động của tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ; xây dựng một số tổ chức
khoa học và công nghệ của Nhà nước đạt trình độ tiên tiến trong khu vực thuộc các lĩnh
vực trọng điểm được xác định trong Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ đến
năm 2010; tăng cường mối liên kết giữa nghiên cứu - đào tạo - sản xuất.
a) Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các tổ chức khoa học và công
nghệ của Nhà nước hoạt động nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược và chính sách,
nghiên cứu các lĩnh vực khoa học và công nghệ trọng điểm và một số lĩnh vực khác do
Nhà nước quy định
Tự chủ về hoạt động khoa học và công nghệ: các tổ chức khoa học và công nghệ phải có
trách nhiệm thực hiện tốt các nhiệm vụ Nhà nước giao; đồng thời tự chủ tiến hành các
hoạt động khoa học và công nghệ khác theo quy định của pháp luật (liên kết, hợp tác, ký
hợp đồng nghiên cứu và dịch vụ khoa học và công nghệ, chuyển giao công nghệ v.v ).
Tự chủ về tài chính: Nhà nước đảm bảo kinh phí hoạt động để thực hiện nhiệm vụ Nhà
nước giao theo phương thức khoán chi quỹ lương, hoạt động bộ máy và kinh phí thực
hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Các tổ chức này được tự chủ trong việc sử dụng
các nguồn thu khác từ hợp đồng khoa học và công nghệ với các tổ chức, cá nhân thuộc
mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài.
Tự chủ về quản lý nhân sự: thực hiện phân cấp và trao quyền tự chủ nhân sự cho tổ chức
khoa học và công nghệ của Nhà nước trên cơ sở thực hiện chế độ viên chức và hợp đồng
lao động đối với cán bộ khoa học và công nghệ. Cơ chế tự chủ về quản lý nhân sự được
quy định cụ thể trong mục 4 "Đổi mới quản lý nhân lự
c khoa học và công nghệ" dưới
đây.
Tự chủ về quan hệ hợp tác quốc tế: phân cấp mạnh hơn nữa cho các tổ chức khoa học và
công nghệ trong việc cử cán bộ khoa học và công nghệ ra nước ngoài, thuê chuyên gia
nước ngoài thực hiện nghiên cứu, đào tạo, tư vấn khoa học và công nghệ và đảm nhiệm
chức vụ quản lý trong các tổ chức khoa học và công nghệ thuộc các lĩnh vực do Nhà
nướ
c quy định.
Nhà nước giao cho người đứng đầu các tổ chức khoa học và công nghệ thực hiện quyền
tự chủ và chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của tổ chức.
b) Chuyển các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang hoạt động theo
cơ chế doanh nghiệp
Chuyển các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ có sản phẩm gắn với
thị trường sang hoạt động theo một trong các hình thức sau: doanh nghiệp khoa học và
công nghệ; doanh nghiệp; tổ chức khoa học và công nghệ tự trang trải kinh phí.
Doanh nghiệp khoa học và công nghệ có quyền và nghĩa vụ sau đây:
Về chức năng nhiệm vụ:
- Thực hiện các hoạt động khoa học và công nghệ, đào tạo nhân lực khoa học và công
nghệ theo quy định của Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Giáo dục và các quy định
pháp luật khác có liên quan.
- Tổ chức sản xuất và kinh doanh sản phẩm mới, dịch vụ khoa học công nghệ dựa trên kết
quả nghiên cứu và phát triển theo Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp nhà nước.
Về tổ chức:
Các doanh nghiệp khoa học và công nghệ được tổ chức theo loại hình Công ty có nhiều
hình thức sở hữu (nhà nước, tập thể, tư nhân) hoặc theo mô hình Công ty mẹ - Công ty
con, với cơ cấ
u gồm:
- Các đơn vị nghiên cứu và phát triển có chức năng nghiên cứu phát triển công nghệ; tiếp
nhận, thích nghi công nghệ mới và tổ chức chuyển giao công nghệ này vào các đơn vị sản
xuất - kinh doanh bên trong hoặc bên ngoài doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Giá trị
sáng chế và giá trị công nghệ chuyển giao của các đơn vị nghiên cứu và phát triển được
tính vào vốn điều lệ khi thành lập các đơn vị sản xuất - kinh doanh hoặc liên doanh, liên
k
ết với tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài.
- Các đơn vị sản xuất - kinh doanh được tổ chức dưới dạng các loại doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế, hoạt động theo quy định của pháp luật hiện hành.
Bộ máy tổ chức và cơ chế quản lý của doanh nghiệp khoa học và công nghệ được xác
định phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của loại hình doanh nghiệp này.
Về quản lý tài sản và tài chính:
- Nhà nước giao quyền sử dụng và quản lý toàn bộ tài sản cho các doanh nghiệp khoa học
và công nghệ chuyển đổi từ các tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ
theo quy định hiện hành của pháp luật về giao tài sản cho doanh nghiệp nhà nước.
- Doanh nghiệp khoa học và công nghệ phải trích ít nhất 2% doanh thu để đầu tư cho hoạt
động khoa học và công nghệ, kể từ khi có thu nhập và được hưởng các ưu đãi theo quy
định của pháp luật. Nhà nước hỗ trợ một phần quỹ lương và hoạt động bộ máy trong 3
năm kể từ khi có quyết định chuyển đổi; hỗ trợ một phần vốn cố định và lưu động khi
thành lập các công ty sản xuất - kinh doanh trực thuộc; có chính sách hỗ trợ cán bộ khoa
học và công nghệ, viên chức trong khi chờ việc, thuyên chuyển, đào tạo lại, thôi việc
v.v
Về quản lý nhân lực và quan hệ hợp tác, liên kết:
- Tự chủ trong việc ký kết hợp đồng lao động đối với cán bộ, viên chức theo Luật Lao
động, Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Doanh nghiệp và
các quy định pháp luật có liên quan.
- Chủ động thực hiện các quan hệ hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, kinh tế,
thương mại theo quy định của pháp luật.
Tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ chuyển sang hình thức doanh
nghiệp, tổ chức khoa học và công nghệ tự trang trải kinh phí:
Tổ chức nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ chuyển sang hình thức doanh
nghiệp, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Doanh nghiệp. Các tổ chức
chuyển đổi sang hình thức doanh nghiệp được giao tài sản như đối với doanh nghiệp
khoa học và công nghệ và hưởng các ưu đãi về thuế, phí, lệ phí và các ưu đãi khác như
đối với doanh nghiệp mới thành lập.
Tổ chức khoa học và công nghệ tự trang trải kinh phí hoạt động theo Luật Khoa học và
Công nghệ. Các tổ chức chuyển đổi này được Nhà nước giao toàn bộ tài sản, được hỗ trợ
quỹ lương và hoạt động bộ máy kể từ khi có quyết định chuyển đổi. Mức và thời gian hỗ
trợ quỹ lương và hoạt động bộ máy
được căn cứ vào kết quả đánh giá của cơ quan quản
lý khoa học và công nghệ có thẩm quyền về chất lượng và hiệu quả hoạt động của các tổ
chức chuyển đổi này.
Việc chuyển đổi các tổ nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ sang hình thức
doanh nghiệp khoa học và công nghệ, doanh nghiệp, tổ chức khoa học và công nghệ tự
trang trải kinh phí phải được tiến hành từng bước, có thí điểm, tổng kết, rút kinh nghiệm
để nhân rộng.
c) Đẩy mạnh việc hình thành và phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ cao
Doanh nghiệp khoa học và công nghệ cao là doanh nghiệp khoa học và công nghệ hoạt
động trong các lĩnh vực công nghệ cao, đáp ứng các điều kiện do Nhà nước định kỳ công
bố.
Nhà nước khuyến khích các tổ chức khoa học và công nghệ, tập thể và cá nhân nhà khoa
học thành lập, liên doanh với doanh nghiệp thành lập doanh nghiệp khoa học và công
nghệ cao thông qua các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, thành lập quỹ đầu tư mạo
hiểm, đầu tư hạ tầng cơ sở.
Doanh nghiệp khoa học và công nghệ cao được áp dụng các ưu đãi như đối với các doanh
nghiệp công nghệ cao tại khu công nghệ cao theo quy định của pháp luật.
d) Thực hiện đánh giá định kỳ đối với các tổ chức khoa học và công nghệ sử dụng kinh
phí từ ngân sách nhà nước
Nhà nước quy định chế độ tự đánh giá và bên ngoài đánh giá định kỳ đối với các tổ chức
khoa học và công nghệ sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước theo các tiêu chuẩn phù
hợp với chuẩn mực quốc tế để nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí đầu tư.
Nghiên cứu hình thành loại hình tổ chức đánh giá khoa học và công nghệ độc lập có
chức năng nghiên cứu phương pháp và tổ chức thực hiện việc đánh giá hoạt động khoa
học và công nghệ, đánh giá các tổ chức khoa học và công nghệ, phục vụ yêu cầu nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động và quản lý khoa học và công nghệ và bảo đảm tính
khách quan trong việc đánh giá.
đ) Phát huy chức năng và nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học và công nghệ của các
trường đại học
Nhà nước tăng đầu tư nghiên cứu khoa học và công nghệ cho các trường đại học: đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng khoa học và công nghệ, tăng kinh phí nghiên cứu và phát triển,
đặc biệt là nghiên cứu c
ơ bản định hướng ứng dụng.
Quy định định mức nghiên cứu khoa học, kết quả nghiên cứu được công bố đối với cán
bộ giảng dạy của các trường đại học phù hợp với chức danh.
Xây dựng cơ chế liên kết giữa trường đại học và tổ chức nghiên cứu và phát triển: xây
dựng và thực hiện các quy chế về kiêm nhiệm chức vụ lãnh đạo và chuyên môn đối với
các tổ chức nghiên cứu và phát triển và các trường đại học, về khuyến khích cán bộ
nghiên cứu thuộc các tổ chức nghiên cứu và phát triển tham gia giảng dạy, về dùng chung
phòng thí nghiệm và thiết bị phục vụ nghiên cứu và giảng dạy.
Đẩy mạnh liên kết giữa trường đại học đối với cơ sở sản xuất, doanh nghiệp: các trường
đại học thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ của Nhà nước và ký kết hợp đồng
khoa học và công nghệ, chuyển giao kết quả nghiên cứu với các tổ chức thuộc mọi thành
phần kinh tế trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật.
Xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ các trường đại học công nghệ thực hiện nhiệm vụ
ươm tạo công nghệ và ươm tạo doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp khoa học và công
nghệ để sớm hình thành các doanh nghiệp vừa và nhỏ ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa
học và công nghệ vào sản xuất, kinh doanh.
3. Đổi mới cơ chế, chính sách đầu tư tài chính cho hoạt động khoa học và công nghệ
Đổi mới cơ chế, chính sách tài chính nhằm: tăng nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà
nước cho phát triển khoa học và công nghệ; nâng cao hiệu quả đầu tư của Nhà nước cho
khoa học và công nghệ; tạo động lực cho tổ chức và cá nhân hoạt động khoa học và công
nghệ.
a) Đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ
Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm nâng cao
năng lực cạnh tranh:
- Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế và chính sách tài chính khuyến khích doanh nghiệp đầu
tư vào hoạt động khoa học và công nghệ quy định trong Nghị định số 119/1999/NĐ-CP
của Chính phủ.
- Khuyến khích doanh nghiệp thành lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ để thực
hiện nghiên c
ứu, ứng dụng kết quả nghiên cứu phục vụ đổi mới công nghệ và sản phẩm;
doanh nghiệp được khấu hao nhanh đối với tài sản, thiết bị, máy móc; được vay vốn với
lãi xuất ưu đãi tại Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, các Quỹ phát triển
khoa học và công nghệ của Bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để tiến hành hoạt
động nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ.
Khuyến khích thành lập các loại quỹ phát triển khoa học và công nghệ:
Nhanh chóng đưa Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia vào hoạt động; triển
khai thành lập các Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của các Bộ, tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương; khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài thành lập
Quỹ phát triển khoa học và công nghệ, quỹ đầu tư mạo hiểm trong lĩnh vực khoa học và
công nghệ.
Tăng cường khai thác các nguồn vốn từ hợp tác quốc tế cho phát triển khoa học và công
nghệ:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét